Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Tư, Ngày 24 tháng 04 năm 2024,
Bấp bênh nghề trồng cói Nga Sơn
Sĩ Chức - 11/06/2013 07:01
 
Câu ca “chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng…” đã đi vào tiềm thức của người Việt. Nhưng nay, do thị trường đầu ra thu hẹp, việc duy trì nghề truyền thống này của người dân Nga Sơn (Thanh Hoá) đang là bài toán khó giải hơn bao giờ hết.
TIN LIÊN QUAN

Vướng mắc lớn nhất là cói Nga Sơn chưa tìm được đầu ra ổn định

Xã Nga Tân được coi là địa bàn có diện tích cói lớn nhất huyện Nga Sơn, với 320 ha đất trồng cói, trên 7.500 nhân khẩu, trong đó, 3.500 – 4.000 người trong độ tuổi lao động. Nghề trồng cói hiện vẫn là nghề chủ lực của gần 80% số lao động trong xã.

Ông Yên Tiến Luận, Bí thư Đảng ủy xã Nga Tân cho biết, diện tích cói trên địa bàn xã cho năng suất bình quân 5 - 6 tấn/ha.

Tuy nhiên, để có năng suất ổn định như vậy, sau 1 – 2 năm canh tác, người dân nơi đây phải cải tạo đồng cói (bốc đất, hạ thấp độ sâu 15 – 20 cm, bóc đi lộn lại), với chi phí tới 95 – 100 triệu đồng/ha.

“Trong 2 năm trở lại đây, giá thu mua cói rất bấp bênh, khi thị trường xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc khép lại”, ông Luận nói. Nếu trong năm 2012, giá bình quân của cói dài (hơn 1,75 m) là 11 triệu đồng/tấn, cói ngắn (dưới 1,75 m) là 6 triệu đồng/tấn, thì sang năm 2013, giá cói dài giảm còn 8,5 - 9 triệu/tấn, cói ngắn còn 4,5 – 5 triệu/tấn.

Ông Luận cho biết thêm, chính quyền xã đang thực hiện công tác chuyển đổi khoảng 110 ha sang làm kinh tế trang trại, đồng thời thí điểm chuyển một số diện tích sang trồng lúa, chỉ giữ lại phần diện tích cói phù hợp nhất.

Ông Hàn Duy Điều, Bí thư Đảng ủy xã Nga Thanh (địa phương có 140 ha diện tích trồng cói và 80% lao động làm nghề trồng cói, được xem là nơi có chất lượng cói tốt nhất tại Nga Sơn) thì cho rằng, nguyên nhân giá cói xuống thấp là do sản lượng cói đang dư thừa so với nhu cầu. Từ khi có các sản phẩm thay thế chiếu, thảm…, nhu cầu về nguyên liệu cói sản xuất đã giảm đáng kể.

Theo ông Điều, trong những năm qua, nghề trồng cói duy trì được là nhờ có thị trường Trung Quốc thu mua qua con đường tiểu ngạch. Tuy nhiên, gần đây, việc xuất khẩu theo hình thức này đã bị hạn chế, mà xuất khẩu theo đường chính ngạch thì chi phí quá cao. Trong khi đó, nhu cầu nguyên liệu cói của các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống trong nước lại quá ít.

Ông Điều cho biết thêm, mặc dù là địa phương có nghề truyền thống về trồng và sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ cói, nhưng hiện tại, ở xã Nga Thanh nói riêng và huyện Nga Sơn nói chung, các cơ sở sản xuất sản phẩm chế biến từ cói còn quá ít.

“Nếu nhìn ở góc độ kinh tế, việc trồng cói gắn với chế biến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ cói vẫn mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với trồng lúa, nhưng khúc mắc là phải tìm được thị trường đầu ra cho sản phẩm”, ông Điều buồn rầu nói.

Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp huyện Nga Sơn, trong 2 năm gần đây, trên địa bàn có gần 3.000 ha đất trồng cói hai vụ, nằm rải rác trên địa bàn 8 xã ven biển, với sản lượng 23.000 – 24.000 tấn cói/năm. Với giá bấp bênh thời gian qua, sau khi trừ chi phí cải tạo ruộng đồng, phân, giống…, hiệu quả mang lại rất thấp.

Ông Mai Sĩ Diến, Bí thư huyện ủy huyện Nga Sơn cho rằng, câu chuyện về cây cói của Nga Sơn đang vướng ở chỗ, làm sao để nâng cao giá trị của cây cói. Khác với vùng nguyên liệu mía, vùng nguyên liệu cói của Nga Sơn chưa gắn được trách nhiệm của các doanh nghiệp chế biến với quyền lợi của người nông dân.

“Chủ trương giảm diện tích trồng cói chính là phép lọc, định hướng cho doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nguyên liệu cói phải có trách nhiệm với người nông dân, để từ đó, nâng cao giá trị của cây cói. Như vậy mới có thể duy trì được nghề truyền thống một cách bền vững”, ông Diến nói.

Hiện nay, lãnh đạo huyện Nga Sơn đã có chủ trương khuyến khích chuyển đổi và giảm bớt diện tích trồng cói, trong đó có chính sách hỗ trợ các hộ nông dân chủ động chuyển đổi sang mô hình kinh tế trang trại, hoặc thí điểm đưa cây lúa vào trồng thay thế.

Hình ảnh những cánh đồng cói bạt ngàn ở Nga Sơn đang mờ nhạt dần và câu chuyện duy trì nghề truyền thống gắn với sự phát triển kinh tế ổn định của người dân nơi đây đang là một bài toán khó giải.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư