Nhìn lại chặng đường 49 năm hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1075 – 30/4/2024), nhất là trong 10 năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực của toàn thể nhân dân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong việc khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

100 triệu dân là 100 triệu khát vọng. Để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến phát huy giá trị văn hóa, xây dựng phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam, bao gồm cả những giá trị văn hóa truyền thống và giá trị văn hóa hiện đại, mà tiêu biểu là giá trị dân tộc, dân chủ, khoa học và nhân văn.

 

Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam là nhiệm vụ có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế hiện nay, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thành công mục tiêu Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.

 

Trò chuyện với phóng viên Báo Đầu tư, PGS-TS. BÙI HOÀI SƠN, nhà văn hóa, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội, Phó chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam - Azerbaijan khẳng định: “Khát vọng và lòng đoàn kết của người Việt luôn là sức mạnh vô địch, giúp đất nước vượt qua mọi thách thức và phát triển mạnh mẽ”.

 

Theo ông, để phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thời gian tới, cần phải đẩy mạnh 5 giải pháp chính gồm: Ưu tiên đầu tư vào giáo dục; tập trung tạo ra cơ hội nghề nghiệp phù hợp với bối cảnh xã hội mới; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; xây dựng xã hội công bằng và bền vững; và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và ý thức cộng đồng.

 

 

Xây dựng đất nước độc lập, tự chủ và cường thịnh là khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Hơn hai thập kỷ nghiên cứu văn hóa, theo ông, khát vọng và sức mạnh của con người Việt Nam đã được vun đắp và biểu hiện như thế nào qua các mặt của cuộc sống?

 

Sức mạnh nội tại của người Việt Nam đã được biểu hiện qua nhiều khía cạnh của cuộc sống, từ lịch sử đến hiện tại.

 

Biểu hiện đầu tiên, theo tôi, là tinh thần yêu nước và đoàn kết. Lễ hội Đền Hùng vừa qua chính là một biểu hiện cụ thể của tinh thần ấy, khi cả nước hướng về tổ tiên chung của dân tộc, với những giá trị được kết tinh thành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Ở đó, mọi người dân Việt Nam, dù có sự khác biệt trong ý thức hệ, tôn giáo, vùng miền, dân tộc… vượt qua cả thời gian, đều có chung một ý thức về tinh thần dân tộc. Để từ đó gắn kết với nhau hơn, giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù. Chính tinh thần yêu nước và đoàn kết đã hình thành nên sức mạnh văn hóa Việt Nam để chúng ta xây dựng, gìn giữ, bảo vệ và phát triển đất nước đến ngày hôm nay.

 

Thứ hai chính là sức mạnh về lòng kiên trì và sự bền bỉ. Từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, với “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, chúng ta luôn phải chăm chỉ, kiên trì, bền bỉ để biến “sỏi đá cũng thành cơm”, và từ đó hình thành nên tính cách đáng quý chung của con người Việt Nam.

 

Dù đã trải qua nhiều thử thách lịch sử, từ những năm dài chiến tranh đến thời kỳ khó khăn, người Việt Nam luôn biết cố gắng vượt qua và không bao giờ từ bỏ hy vọng và niềm tin của mình. Sức mạnh này đã giúp chúng ta phục hồi và phát triển sau những biến cố của lịch sử.

 

Thứ ba là tính sáng tạo và sự khéo léo trong giải quyết vấn đề. Ngoại giao cây tre mà chúng ta đang vận dụng thành công chính là một ví dụ tiêu biểu cho đức tính ấy. Đất nước ta ở vào một vị trí địa chính trị hết sức đặc biệt. Không chỉ ở khu vực có thời tiết khắc nghiệt, vị trí ngã ba đường của các nền văn minh vừa giúp chúng ta có được cơ hội tiếp nhận thành tựu, nhưng cũng phải có những giải pháp để giữ vững chủ quyền quốc gia dân tộc mình.

 

Người Việt Nam thường xuất sắc trong việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề phức tạp, bất kể là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật hay công nghệ. Năm nay, chúng ta kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Rất nhiều những cải tiến khéo léo từ xe đạp thồ, chiến thuật sử dụng chiến hào... để thể hiện sự sáng tạo tài tình của người Việt Nam.

 

Sức mạnh thứ tư mà tôi muốn kể đến là tinh thần ham học. Chúng ta luôn đề cao giá trị của việc học tập, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, coi “nhân tài là nguyên khí quốc gia”. Chính tinh thần ham học đến mức nâng việc học thành đạo học, với biểu tượng như Văn Miếu - Quốc Tử Giám, các văn chỉ ở các làng quê, tôn vinh những danh nhân là những nhà giáo hay nhà thơ như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu... Ngày nay, mọi quốc gia đều chú trọng đến sức mạnh của tri thức thì những phẩm chất đáng quý của dân tộc ta sẽ phát huy hơn nữa giá trị của mình.

 

 

Nhìn vào lịch sử dân tộc, trải qua chiều dài dựng nước và giữ nước, theo ông, sức mạnh tinh thần của người Việt đã có vai trò và tác động ra sao đến sự phát triển của quốc gia, dân tộc? Và xây dựng đất nước độc lập, tự chủ và cường thịnh của người Việt trước đây và bây giờ được thể hiện khác nhau như thế nào?

 

Sức mạnh tinh thần của người Việt Nam đóng vai trò quan trọng và có tác động sâu rộng đến sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Chính sức mạnh ấy đã giúp đất nước ta giữ vững độc lập và tự chủ, chống lại sự xâm lược và áp đặt của các nước lớn trong lịch sử. Tinh thần ấy đã giúp duy trì và bảo vệ độc lập, chủ quyền và văn hóa của dân tộc, tạo điều kiện cho sự phát triển của quốc gia.

 

Chúng ta có thể thấy, trong những cuộc chiến tranh và kháng chiến chống lại thực dân, người Việt Nam đã thể hiện sức mạnh tinh thần phi thường. Tinh thần đoàn kết và quyết tâm cao đã giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, đánh bại mọi kẻ thù và bảo vệ tổ quốc. Sức mạnh tinh thần cũng đã tạo ra lòng tự hào và tình yêu nước sâu sắc trong lòng người Việt Nam, đã thúc đẩy mỗi người đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước, từ làm việc chăm chỉ đến việc duy trì và phát triển văn hóa, truyền thống và giá trị dân tộc.

 

 

Trải qua thời gian, xây dựng đất nước độc lập, tự chủ và cường thịnh của người Việt Nam trước đây và hiện nay có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đó là nếu như trước đây, dân tộc Việt Nam ta chịu nhiều thách thức, muôn vàn khó khăn của giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm khi chiến tranh tàn phá trong điều kiện đất nước còn nghèo, “cái khó bó cái khôn”, thì giờ đây, đã có nhiều thuận lợi khi chưa bao giờ nước ta có cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay.

 

Việt Nam đã đạt được sự ổn định và phát triển đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ, đất nước đã trở thành một trong những điểm sáng về tăng trưởng kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, đồng thời đóng góp tích cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Tất cả tạo thế và lực mới để xây dựng và phát triển bền vững đất nước.

 

Dù vậy, không phải mọi thứ đều thuận lợi. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, chúng ta phải đối mặt với các thách thức mới, như biến đổi khí hậu, nền kinh tế toàn cầu hóa, những thách thức số đến từ xã hội số, kinh tế số, văn hóa số, công dân số, và các vấn đề xã hội phức tạp. Tuy nhiên, khát vọng và lòng đoàn kết của người Việt Nam vẫn luôn là sức mạnh vô địch giúp đất nước vượt qua mọi thách thức và phát triển mạnh mẽ.

 

 

Trong những năm qua, chúng ta nhận thấy sự quan tâm ngày càng nhiều hơn và sâu sắc hơn của toàn xã hội đối với văn hóa. Điều đó có được là nhờ đâu, thưa ông?

 

Chắc chắn điều đó đến từ nhận thức ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn của Đảng và Nhà nước đối với vị trí và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước.

 

Trải qua những năm tháng dài chiến tranh, khi mọi sự tập trung dồn hết cho tiền tuyến, khi đất nước trở lại hòa bình, chúng ta mới có nhiều hơn nguồn lực cho phát triển văn hóa. Đứng trước thách thức của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, và gần đây là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhất là Internet với mạng xã hội, và trí tuệ nhân tạo, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần cho xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là hệ điều tiết cho sự phát triển bền vững đất nước.

 

 

Từ nhận thức ấy, chúng ta đã xây dựng hành lang pháp lý qua các luật di sản văn hóa, điện ảnh, quảng cáo, hay các nghị định, thông tư…, bố trí nguồn lực qua các chương trình mục tiêu quốc gia, xác định tỷ lệ đầu tư cho văn hóa…, tìm ra những hướng đi mới, đột phá cho phát triển văn hóa qua chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tạo thuận lợi cho phát triển văn hóa.

 

Không chỉ thành công trong đổi mới về kinh tế, chúng ta cũng thấy sự khởi sắc, bùng nổ trong các hoạt động văn hóa dẫn đến một thị trường văn hóa nhộn nhịp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam được UNESCO công nhận, ghi danh chứng minh không chỉ sự đa dạng, phong phú, giàu có của di sản của nước ta, mà còn cả sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với di sản, truyền thống văn hóa của dân tộc.

 

Tất nhiên, không thể bỏ qua sự nỗ lực không ngừng nghỉ của đội ngũ cán bộ ngành văn hóa, các văn nghệ sĩ, nghệ nhân, những người thực hành và hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để văn hóa ngày càng nhận được sự quan tâm nhiều hơn trong xã hội.

 

 

Tuy đã đạt nhiều kết quả, nhưng việc chấn hưng văn hóa cũng đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Đó là khó khăn, thách thức nào, thưa ông?

 

Chắc chắn là chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức.

 

Thách thức thứ nhất là nhiệm vụ hoàn thiện thể chế văn hóa, trong đó các chủ trương, đường lối lớn của Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa và thực thi, để có thể hỗ trợ sự đa dạng và năng động của văn hóa, nghệ thuật mà không can thiệp quá sâu và giới hạn sức sáng tạo. Trong đó, cần hoàn thiện các chính sách thuế và luật định ảnh hưởng đến kinh doanh nghệ thuật và thị trường như quyền sở hữu trí tuệ, luật hiến tặng và bảo trợ, hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy sự tham gia vào văn hóa của các đối tác khác nhau trong lĩnh vực công, tư và độc lập.

 

Thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn hóa hay công nghiệp sáng tạo như một giải pháp để phát triển văn hóa. Xây dựng các cơ chế thúc đẩy phát huy nguồn lực, nhằm tạo nên sự hiệp lực, hợp tác chặt chẽ trong văn hóa, nghệ thuật thúc đẩy sự điều phối, kết hợp giữa nhà nước, các nhà tài trợ, thành phần tư nhân để hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, tăng trưởng, cạnh tranh và cải tổ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

 

Chú ý đến quyền văn hóa của người dân cũng là một trong những cách thức để tạo ra sự năng động của văn hoá, nghệ thuật. Khi người dân được tạo điều kiện để hưởng thụ, sáng tạo và tôn trọng tự do biểu đạt văn hoá nghệ thuật thì sẽ là môi trường tốt để phát triển văn hoá.

 

Để làm được như vậy, chúng ta phải thực hiện tốt quan điểm chính phủ kiến tạo trong lĩnh vực văn hoá, khi đó, Nhà nước tập trung nhiều hơn đến việc ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển văn hóa, hạn chế việc can thiệp quá sâu hay thực hiện trực tiếp các hoạt động văn hoá cụ thể.

 

Thứ hai là thách thức trong việc chuyển đổi mô hình từ quản lý tập trung sang mô hình phân cấp quản lý văn hóa phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã vận hành theo các tín hiệu thị trường thì lĩnh vực văn hóa, nhiều lúc, nhiều nơi, vẫn chưa thực sự theo kịp với những thay đổi đó.

 

Với tư tưởng của chính phủ kiến tạo, chức năng của Chính phủ đã thay từ làm văn hóa chuyển sang quản lý văn hóa, từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, từ quản lý trực tiếp chuyển sang quản lý gián tiếp, từ quản lý đơn vị trực thuộc chuyển sang quản lý xã hội. Thách thức trong việc tiếp tục Đổi mới tư duy lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng theo hướng dân chủ, cởi mở, phát huy tính sáng tạo, chủ động của các chủ thể văn hóa.

 

Thứ ba là thách thức trong việc hoàn thiện năng lực vận hành, ứng dụng và quản lý cơ sở hạ tầng thông tin trong lĩnh vực văn hoá. Bên cạnh thời cơ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đem đến cho Việt Nam nhiều thách thức trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, đó là những yếu kém về cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt là nhận thức của những cán bộ làm trong ngành văn hóa nghệ thuật là những cản trở quan trọng trọng việc áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng đó.

 

Chúng ta cần lưu ý đến thách thức từ sự bùng nổ về thông tin, truyền thông đi kèm với làn sóng giao thoa, du nhập văn hoá, nghệ thuật với nhiều yếu tố văn hoá, nghệ thuật mới, có mặt tích cực nhưng cũng không ít những tiêu cực, trong khi trình độ cán bộ và phương tiện kỹ thuật để quản lý những vấn đề mới mẻ này còn hạn chế, dẫn đến sự lúng túng, bị động trong tổ chức thực hiện.

 

Thứ tư là thách thức của bối cảnh nền kinh tế số, của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Văn hoá được hình thành dựa trên kỹ thuật số hoá chắc chắc sẽ có những khác biệt so với các giai đoạn phát triển xã hội khác. Trong bối cảnh  phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông đa phương tiện và kỹ thuật số, thị trường tự do, lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cần tạo ra sự khác biệt và ứng dụng thành công công nghệ trong việc tạo ra những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng.

 

Cần chú ý nhiều hơn đến việc hoàn thiện hệ thống chính sách về quyền riêng tư, bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng, sáng tác và hưởng thụ các tác phẩm văn học - nghệ thuật trên mạng, chính sách bản quyền về liên quan đến tác quyền và tài sản số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu chung của ngành để từng bước hình thành nền tảng dữ liệu lớn…

 

Thứ năm là thách thức về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trong bối cảnh nguồn lực dành cho văn hóa, nghệ thuật, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư cho văn hóa, nghệ thuật chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa tương xứng với vai trò và vị thế của văn hóa khi đặt trong quan điểm phát triển bền vững đất nước. Chúng ta cần có sự chung tay của toàn xã hội trong đầu tư cho văn hóa, nghệ thuật.

 

Trên thực tế, trong thời gian vừa qua, hoạt động xã hội hóa cũng đã có những thành công nhất định trong việc xây dựng, trùng tu các di tích tâm linh hay sự bùng nổ của các bộ phim Việt Nam do tư nhân sản xuất. Tuy vậy, thách thức ở đây nằm ở chỗ, nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật khác vẫn chưa thu hút được sự quan tâm đầu tư đầy đủ, nhất là những lĩnh vực bị xem là ít khán giả hay không có nhiều lợi ích cho cá nhân người đầu tư như nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật đỉnh cao hay một số các sinh hoạt văn hóa khác.

 

 

Thứ sáu là thách thức về năng lực đổi mới sáng tạo, trong việc cải cách lĩnh vực văn hóa để làm cho văn hóa trở nên phát triển bền vững hơn và mang tinh thần doanh nghiệp. Đối với văn hóa, đổi mới sáng tạo có thêm ý nghĩa khi đưa tinh thần doanh nghiệp vào trong hoạt động quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Những thách thức ở đây là về việc nâng cao năng lực quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, về kỹ năng kinh doanh. Một trong những yêu cầu mới của lĩnh vực văn hóa là cần thiết lập mối quan hệ mạnh mẽ hơn với công chúng hoặc người tiêu dùng, doanh nghiệp và cộng đồng, từ đó để nâng cao nhận thức về những các giá trị khác nhau của văn hóa, nghệ thuật.

 

Thứ bảy là thách thức từ toàn cầu hoá văn hoá như là một quá trình lưu thông mà thông qua đó, các nền văn hoá dân tộc đang ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau. Sự tiếp thu thiếu chọn lọc văn hóa ngoại lai có nguy cơ bị xâm lăng văn hóa nếu bản thân Việt Nam không nâng cao sức mạnh nội sinh trong văn hóa tiến hành hiện đại văn hóa nhưng không xa rời dân tộc.

 

Bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra thách thức cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để làm phong phú cho văn hoá đất nước, thúc đẩy văn hóa phát triển, hiện đại hóa văn hóa nhưng không xa rời dân tộc.

 

 

Tôn trọng và gìn giữ truyền thống để phát triển tương lai, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, củng cố nội lực, tạo sức đề kháng trước những cuộc xâm lăng văn hóa từ bên ngoài, hòa nhập mà không hòa tan, xử lý tốt các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Xử lý tốt các xung đột văn hóa nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa.

 

Thứ tám là thách thức trong việc xử lý rất hài hòa, đúng đắn nhiều mối quan hệ khác nhau của văn hóa.

 

Trước hết là mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, trong đó xử lý như thế nào mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự, giữa tập quyền và phân quyền trong văn hóa, trong việc coi văn hóa là một lĩnh vực của hệ tư tưởng.

 

Hai là, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, bao gồm các quan điểm coi sự phát triển văn hóa là một bộ phận của nền kinh tế, nhất là chuyển sang kinh tế tri thức chứ không phải bên lề, là hệ quả của phát triển kinh tế.

 

Ba là, xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, đơn cử các di sản văn hóa cần được bảo tồn và phát huy như thế nào là thích hợp; Giữa bảo tồn truyền thống và phát triển văn hóa mới cần được định vị như thế nào trong một chính sách phát triển tổng thể của đất nước.

 

Cuối cùng là thách thức trong việc khuyến khích sáng tạo của nghệ sĩ và giới chuyên môn, bảo tồn đi đôi với việc tiến hành nâng cao, cải biên, hiện đại hoá văn hoá truyền thống, làm cho các giá trị truyền thống phù hợp với đời sống của xã hội đương đại, qua đó phát triển các ngành công nghiệp văn hóa thành ngành có giá trị kinh tế cao và sức mạnh quảng bá tốt cho văn hóa quốc gia, phát triển nguồn nhân lực sáng tạo, mở rộng thị trường và làm cho ngành công nghiệp văn hoá có đóng góp ngày càng quan trọng hơn cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế.

 

 

Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước. Để đầu tư cho văn hóa hiệu quả, cần đặc biệt chú ý những điều gì, thưa ông?

 

Đầu tư cho văn hóa đã và đang được khẳng định là một trong những trọng trách của Nhà nước, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển. Vì vậy, trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta chủ trương “lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” và quan tâm đầu tư đúng mức cho phát triển văn hóa. Việc phát triển văn hóa theo các định hướng lâu dài, cho dù đó là mục tiêu đa dạng hóa văn hóa (đa dạng hóa cách thức sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm và hoạt động văn hóa, đa dạng hóa cách tiếp cận văn hóa...) hay dân chủ hóa văn hóa (bảo đảm mọi người dân thuộc mọi thành phần xã hội đều có thể tham gia quá trình sáng tạo, phân phối và hưởng thụ văn hóa) và phúc lợi văn hóa…, đều cần đến nền tảng vững chắc về tài chính.

 

Tuy nhiên, rõ ràng, so với nhu cầu phát triển văn hoá, ngân sách dành cho văn hóa còn nhiều hạn chế. Năm 2019, báo cáo trước Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ cũng đã thừa nhận rằng mức chi cho văn hoá mới chỉ dừng lại ở 1,71% chi thường xuyên, thấp hơn so với yêu cầu là 1,8% đã được đưa ra từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (Khoá VIII) từ năm 1998. Khi nguồn lực ngân sách cho phát triển văn hóa không đáp ứng yêu cầu, chắc chắn nhiều vấn đề liên quan văn hóa sẽ bị ảnh hưởng. Chúng ta hy vọng rằng, sắp tới, khi Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, tình trạng trên sẽ giảm bớt.

 

Không chỉ mức chi cho văn hóa thấp, điều quan trọng không kém là tình trạng đầu tư cho văn hóa còn dàn trải, chưa thật sự mang lại hiệu quả. Trong khi các tác phẩm nghệ thuật do Nhà nước đầu tư chủ yếu vẫn gắn với việc phục vụ cho


những ngày lễ lớn hoặc những sự kiện chính trị quan trọng, các chương trình đầu tư dài hạn lại không được triển khai một cách đồng bộ.

 

Việc phim "Đào, phở và piano" trở thành sự kiện khi nhận được nhiều sự quan tâm của khán giả, là một ví dụ cho thấy sự chưa thích nghi với nền kinh tế thị trường do Nhà nước đặt hàng. Bên cạnh đó, rất nhiều thiết chế văn hóa hoạt động cũng không hiệu quả so với kỳ vọng của xã hội.

 

Để khắc phục tình trạng này, triển khai hiệu quả đầu tư tài chính cho văn hóa, cần nâng cao năng lực quản trị và cơ chế phân bổ nguồn đầu tư công trong việc huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho phát triển văn hóa. Như vậy, thay vì đầu tư dàn trải, cơ chế đầu tư cần hướng tới các mục tiêu dài hạn và được triển khai theo các tiêu chí ngày càng rõ ràng hơn.

 

 

Theo đó, Nhà nước xây dựng kế hoạch cụ thể và lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực, các ngành trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy.

 

Để bảo đảm tính chất công ích, giá trị phúc lợi xã hội của lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, Nhà nước sẽ ưu tiên đầu tư vào loại hình sản phẩm và dịch vụ văn hóa phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng nhưng không có sẵn hoặc ít được các doanh nghiệp cung cấp trên thị trường vì khả năng sinh lời hạn chế hay một số sản phẩm và dịch vụ văn hóa không thể do tư nhân cung ứng vì đòi hỏi những điều kiện nhất định mà chỉ có Nhà nước mới đủ tiềm lực để thực hiện.

 

Nguyên tắc căn bản trong phân bổ nguồn lực quốc gia chính là “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, tức là, đầu tư từ ngân sách Nhà nước chỉ đóng vai trò “làm mồi” để thu hút thêm các nguồn đầu tư từ doanh nghiệp và xã hội vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao (như cơ sở hạ tầng, quảng bá thương hiệu, đào tạo nhân lực…).

 

Nhà nước cần bảo đảm sự công bằng trong phân phối nguồn lực: xây dựng tiêu chí cụ thể và hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng về thủ tục xin tài trợ; bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận nguồn tài trợ công giữa các đơn vị công lập và tư nhân, giữa các nghệ sĩ làm việc cho các tổ chức và các nghệ sĩ tự do.

 

Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi (về thuế, phí, tín dụng, quyền sử dụng đất…) nhằm đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa, huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa. Nhà nước cũng khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản... Xây dựng cơ chế ưu đãi (như miễn hoặc giảm thuế…) nhằm khuyến khích thành lập doanh nghiệp xã hội cung cấp các dịch vụ phi lợi nhuận và tạo tác động xã hội.

 

 

Nhìn vào tương lai đất nước với tầm nhìn đến năm 2030, hay xa hơn là đến năm 2045, ông dự đoán khát vọng của người Việt Nam sẽ có sự thay đổi như thế nào?

 

Đảng và Nhà nước ta đang đặt mục tiêu xây dựng xã hội giàu mạnh, văn minh, phồn vinh và hạnh phúc. Tôi hy vọng văn hóa sẽ ở vào vị trí trung tâm trong khát vọng ấy.

 

Chúng ta sẽ tiếp tục tập trung nhiều hơn nữa vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh thế giới hiện đại và sự phổ biến của văn hóa toàn cầu, việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống sẽ trở thành một ưu tiên để chúng ta gìn giữ chủ quyền văn hóa quốc gia của dân tộc.

 

 

Bên cạnh đó, với những nỗ lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong thời gian vừa qua, chúng ta hoàn toàn có thể trông đợi sự phong phú và sáng tạo hơn trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Các lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, văn học, ẩm thực, thời trang... sẽ có cơ hội để phát triển và thịnh hành, đạt được một số thương hiệu quốc tế, đồng thời thúc đẩy niềm tự hào dân tộc.

 

Tôi cũng hoàn toàn tin tưởng rằng, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông, người Việt Nam sẽ ứng dụng công nghệ tốt hơn nữa để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa bằng cách sử dụng các nền tảng trực tuyến để chia sẻ câu chuyện, di sản văn hóa, và tham gia vào các cộng đồng trực tuyến toàn cầu về văn hóa.

 

 

Đặt dân tộc trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, để có một Việt Nam hùng cường, thực sự hạnh phục, một dân tộc có trách nhiệm với nhân loại, cần phải làm gì để nuôi dưỡng những khát vọng đẹp của người Việt, thưa ông?

 

Tôi nghĩ, đầu tiên phải đầu tư vào giáo dục. Trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, trong đó giáo dục là yếu tố trung tâm, then chốt nhất.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đảng và Nhà nước ta cũng coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vì thế, cần đầu tư nhiều hơn nữa vào giáo dục có chất lượng, bảo đảm mọi người có cơ hội tiếp cận kiến thức và kỹ năng cần thiết để tham gia vào xã hội hiện đại và đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

 

 

Thứ hai là tập trung tạo ra cơ hội nghề nghiệp phù hợp với bối cảnh xã hội mới. Cung cấp cơ hội việc làm và khuyến khích sự khởi nghiệp là cách quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cho mỗi cá nhân. Nhà nước và các tổ chức cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ cho các doanh nhân và khuyến khích sự sáng tạo và khởi nghiệp.

 

Thứ ba là bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống là cách để nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và tăng cường sự đoàn kết trong cộng đồng. Quan trọng là kết hợp giữa việc bảo tồn văn hóa cổ truyền và khuyến khích sự đa dạng và tiến bộ trong văn hóa đương đại.

 

Thứ tư là xây dựng xã hội công bằng và bền vững. Xây dựng một xã hội công bằng và bền vững là cách để đảm bảo rằng mọi người đều có cơ hội và quyền lợi bình đẳng. Các chính sách xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và an sinh xã hội cần được cải thiện để đóng góp nhiều hơn nữa vào hạnh phúc của cả xã hội.

 

Thứ năm là thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và ý thức cộng đồng. Khuyến khích tinh thần trách nhiệm cá nhân và ý thức cộng đồng là quan trọng để mọi người đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Việc tham gia vào các hoạt động xã hội, tổ chức tình nguyện và hỗ trợ những người khó khăn là cách để tạo ra một cộng đồng và đất nước Việt Nam đoàn kết và mạnh mẽ.

 

NỘI DUNG: DƯƠNG NGÂN - HỒ HẠ  |  ẢNH: NVCC  |  TRÌNH BÀY: HỒ HẠ

 

Bình luận bài viết này
DƯƠNG NGÂN - HỒ HẠ 30/04/2024 08:34