Kỳ Thành thực hiện - Ảnh: Chí Cường
Ông Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ kỳ vọng, việc định danh cho đúng mối quan hệ hợp tác Việt - Mỹ sẽ được đặt lên bàn nghị sự trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Phó tổng thống Kamala Harris để phản ánh đúng chính sách đối ngoại của Việt Nam, cũng như đem lại lợi ích cho cả hai nước.
Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ |
Thưa ông, chuyến thăm của Phó tổng thống Mỹ, bà Kamala Harris vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch, dù chính quyền Tổng thống Joe Biden đang gặp những chỉ trích của chính giới trong nước về việc rút quân khỏi Afghanistan. Điều này thể hiện thông điệp gì của chính quyền Tổng thống Joe Biden cho khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng?
Chuyến thăm của Phó tổng thống Kamala Harris được thông báo vào thời điểm Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin thăm Việt Nam (tháng 7/2021). Kế hoạch này đã được 2 bên hoạch định từ trước.
Thông điệp của chuyến thăm này rất rõ ràng, thể hiện sự coi trọng quan hệ với Việt Nam và coi trọng khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hai nước mà bà Kamala Harris dừng chân trong chuyến thăm đều ở khu vực Đông Nam Á, cũng là khu vực quan trọng trong tổng thể châu Á - Thái Bình Dương.
Đến Việt Nam là thông điệp về quan hệ song phương, nhưng cũng đồng thời là thông điệp với khu vực. Chắc chắn, hai bên sẽ trao đổi về hòa bình, ổn định, phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương, vai trò trung tâm của ASEAN, về đối tác toàn diện Việt - Mỹ, đồng thời là một loạt vấn đề mà hai bên có lợi ích song trùng và cùng trao đổi, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay là phòng, chống dịch bệnh.
Về cách nhìn từ phía Mỹ, điểm đáng chú ý là người ta không bàn lui chuyến đi, dù có những vấn đề phức tạp đang xảy ra tại Afghanistan, mà thực hiện như kế hoạch, đó là thông điệp rất tốt. Các nhân viên cao cấp Nhà Trắng trả lời rằng, Mỹ có những ưu tiên và lợi ích chiến lược quốc gia với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với các đối tác, vì vậy, Mỹ phải tiếp tục làm việc đó. Chính sách của Tổng thống Joe Biden là nhìn vào những ưu tiên hiện tại, xây dựng cho hiện tại và tương lai, không làm “tù binh” của quá khứ.
Như vậy, đây vừa là kế hoạch, vừa khẳng định rằng họ đang rất ưu tiên khu vực này, nhất là các quan hệ song phương với Việt Nam và Singapore.
Tháng 4 vừa qua, Hoa Kỳ công bố rút Việt Nam khỏi danh sách thao túng tiền tệ sau một quá trình làm việc tích cực giữa hai bên. Đó có phải là một chỉ dấu tốt cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Biden hay không, thưa ông?
Phải thấy rất rõ, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ về kinh tế thương mại ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Càng làm ăn sâu với nhau, những điểm song trùng lợi ích được nhân lên, nhưng cũng có những cọ xát, khác biệt. Câu chuyện này không chỉ với Mỹ, mà với tất cả các nước khác đều thế. Đó là sự khác biệt về nhu cầu, khác biệt về hệ thống quy định quy chuẩn, khác biệt về quy định pháp lý, hải quan… Dưới thời Tổng thống Donald Trump, thâm hụt thương mại là ưu tiên lớn phải xử lý trong quan hệ của Mỹ và các nước, mà Việt Nam lại nằm trong số đó. Nhưng cần phải hiểu, thâm hụt thương mại đó là gì?
Thứ nhất, thâm hụt thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trước hết không xuất phát từ gian lận chính sách. Một trong những cái đó là gian lận xuất xứ hàng hóa, Chính phủ Việt Nam kiên quyết chống, bởi không sẽ hại cả nền kinh tế, hại cả nỗ lực hội nhập của Việt Nam.
Việt Nam mạnh về sản xuất hàng hóa, trong khi Hoa Kỳ lại rất mạnh về công nghệ và dịch vụ. Hoa Kỳ xuất khẩu đi các nước khác bao gồm cả Việt Nam, tạo ra thặng dư về công nghệ và dịch vụ, nhưng lại thâm hụt về hàng hóa. Nếu về kinh tế học thế giới, hai nền kinh tế có tính bổ sung cho nhau và không dẫm vào chân nhau. Nhu cầu của nền kinh tế của Hoa Kỳ vẫn cần dung lượng hàng hóa đó, không mua ở Việt Nam sẽ mua ở chỗ khác, nhưng tại sao lựa chọn Việt Nam? Đó là vì cả chất lượng, giá thành và lòng tin.
Thứ hai, câu chuyện về tiền tệ, người ta tính xem tiền tệ dao động và quản lý thế nào, có dính đến chuyện nó tạo cho anh làm xuất khẩu thuận lợi hơn hay không?
Vấn đề tiền tệ bắt đầu được đề cập từ cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Trump. Ngay khi Tổng thống Biden nhậm chức hồi tháng 1/2021, hai bên đã có trao đổi, thành lập kênh tham vấn với nhau.
Hoa Kỳ khi đó bày tỏ quan ngại của mình về quan hệ thương mại, về biến động và quản lý tỷ giá của VNĐ. Việt Nam đã giải thích rõ rằng, quan hệ thương mại của hai nước là lành mạnh, bổ sung cho nhau.
Trong suốt thời gian qua, Việt Nam đã cố gắng mua thêm hàng của Mỹ, điển hình là năng lượng khí hóa lỏng, máy bay…, nhưng năng lực tiền bạc của mình không lớn, nên không thể một sớm một chiều làm được, nhưng mình quyết tâm làm.
Còn về tiền tệ, Việt Nam cũng nói rõ, quản lý của chúng tôi với đồng tiền là đảm bảo kinh tế vĩ mô, không làm sai lệch tỷ giá, làm biến dạng cái thương mại. Đồng tiền Việt Nam cũng không phải đồng tiền chuyển đổi nên Việt Nam quản lý VNĐ không có nghĩa là làm tăng hay sụt giá USD. Ngoài ra, chúng ta cũng khẳng định quyết liệt trong chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
Cách tham vấn đó là xây dựng, có những giải pháp để hai bên cùng có lợi. Đại diện Thương mại Mỹ ngay lập tức ra quyết định là không có bất cứ hạn chế nào đối với thương mại hai nước, thế là phù hợp lợi ích của hai nước rồi. Nói ra như vậy để thấy rằng, câu chuyện này là câu chuyện hai nước có lòng tin với nhau cho nên lập được kênh tham vấn với nhau hiệu quả và xây dựng thì tìm ra được giải pháp có lợi cho cả hai bên.
Qua câu chuyện này để thấy quan hệ Việt Nam với Mỹ và với thế giới thế nào. Một là, với Mỹ rõ ràng đã gỡ được khúc mắc, tạo sự thuận lợi cho Việt Nam trong hội nhập, “làm ăn” của Việt Nam với thế giới. Sự minh bạch và lòng tin vẫn là lợi ích quốc gia về mặt lâu dài, nên Việt Nam sẽ quyết liệt như thế. Hai là, qua việc giải quyết thành công vấn đề này, lòng tin từ nước Mỹ, đặc biệt là từ các doanh nghiệp Mỹ, các nhà hoạch định chính sách và lập pháp, thì xử lý những khúc mắc khác càng có cách thức xử lý tốt hơn. Khi nhìn Việt Nam với Mỹ như vậy thì châu Âu hay Nhật Bản, Australia… họ sẽ thấy Việt Nam đáng tin cậy trong chuỗi cung ứng, làm ăn với họ, nếu có khúc mắc thì xử lý, đàm phán sẽ rất tiếp thu, xây dựng.
Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chính sách của Tổng thống Joe Biden là nhìn vào những ưu tiên hiện tại, xây dựng cho hiện tại và tương lai, không làm “tù binh” của quá khứ. |
Nếu vậy thì phải chăng, đã đến lúc Việt Nam và Mỹ cần thúc đẩy xây dựng một hiệp định thương mại tự do (FTA), khi mà hai nước đang hướng tới mốc 100 tỷ USD kim ngạch thương mại trong năm nay?
Đây là câu chuyện dài.
Quan hệ kinh tế thương mại Việt - Mỹ hơn 25 năm qua từ nửa tỷ USD vào năm 1995, khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao, bây giờ đang hướng tới 100 tỷ USD, tức là gần 200 lần rồi. Cộng đồng doanh nghiệp từ khi còn “lẻ tẻ”, chỉ có Intel và Coca-Cola đặt văn phòng đại diện, chứ chưa sản xuất thời năm 1994-1995, đến nay không chỉ làm ăn ở đây, mà các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam còn là một phần trong chuỗi cung ứng của thế giới.
Đối với Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta có độ mở cao và nhanh, hội nhập không chỉ theo chiều rộng và hội nhập cả vào những FTA chiều sâu, điển hình là CPTPP, EVFTA.
Nhìn lại, chúng ta có Hiệp định Thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA), sau đó là thỏa thuận song phương mở đường cho Việt Nam tham gia WTO, rồi đến hình thành Hiệp định khung Thương mại và Đầu tư (TIFA) Việt Nam - Mỹ. Như vậy, đã đến lúc rà lại những khung khổ về mặt chính sách trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước.
Cần nhắc lại, Hiệp định TPP mà Việt Nam, Mỹ cùng 10 quốc gia khác tham gia đàm phán vào cuối nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Barack Obama là hiệp định chất lượng cao, rà soát tổng thể tất cả trên các mặt. Lẽ ra, TPP đã bao hàm cả quan hệ kinh tế song phương Việt Nam - Mỹ, lại nằm trong tổng thể chuỗi cung ứng lớn hơn và đây là điều rất tốt. Rất tiếc, bây giờ Mỹ chưa thể hoặc không thể quay trở lại TPP.
Tôi cho rằng, Mỹ không có TPP, nhưng họ khẳng định ưu tiên và cam kết với khu vực này thì phải cam kết cả về an ninh và kinh tế mới đủ gắn kết và tạo vị thế cho họ, vì lợi ích của Mỹ và khu vực cũng cần những điều đó.
Mỹ cần phải có sáng kiến và bước đi thật sự để thể hiện cam kết của mình về thương mại ở khu vực này. Bất cứ một sáng kiến nào mà đưa được vào hoạt động gắn kết ở đây cũng đều đáng hoan nghênh. (Chẳng hạn, như tin đưa, Mỹ lần này cũng muốn thúc đẩy với khu vực về thương mại điện tử, về sản xuất chất bán dẫn, hay về bảo đảm tính bền vững của các chuỗi cung ứng đang bị tác động bởi đại dịch). Thế thì, trong những sáng kiến khu vực đó, chắc chắn Việt Nam đủ cả lợi ích, đủ cả năng lực và cả tư thế có thể hội nhập chất lượng cao để tham gia vào những sáng kiến đó, đan xen với những cái đang có như RCEP, các hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và các đối tác.
Trong chuyến thăm lần này, Hoa Kỳ cũng nêu rõ là sẽ gắn kết kinh tế với ASEAN. Chúng ta cũng nên chủ động hỏi, bàn với họ xem những cái đó cụ thể là gì, lộ trình triển khai với khu vực ra sao, soi vào lợi ích quốc gia của mình xem mình nên tham gia thế nào để chủ động điều chỉnh như thời điểm Việt Nam tham gia đàm phán TPP, đó là các quy định dàn xếp đó vừa có tính chất quốc tế, vừa có lợi ích Mỹ nhưng phải gắn với năng lực và lợi ích của Việt Nam nữa.
Hai là về dịch chuyển và đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ ở Việt Nam rất quan tâm cái này. Vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam chuẩn bị thế nào về khung chính sách, hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng số như thế nào để đón họ vào? Rồi về nhân lực, bao gồm nhân lực quản lý, nhân lực chuyên môn và lao động.
Đại sứ Phạm Quang Vinh: Mỹ cần phải có sáng kiến và bước đi thật sự để thể hiện cam kết của mình về thương mại ở khu vực này. |
Ông từng nhiều lần đề cập, quan hệ Việt - Mỹ có cả chất toàn diện và tầm chiến lược. Chuyến thăm lần này của Phó tổng thống Mỹ có phải là thời điểm phù hợp để hai bên đề cập đến việc gọi đúng tên cho mối quan hệ này không, thưa ông?
Tôi rất thích câu chuyện gọi đúng tên, hay là định danh cho đúng, bởi vì với tất cả những gì mà hai bên đã vượt qua, quan hệ này vượt ra khỏi khuôn khổ song phương, mà cả khu vực, cả những vấn đề toàn cầu, đa phương.
Một câu trả lời ngắn, nó đã ở tầm chiến lược. Có người nói rằng, có định danh thế nào đi nữa thì vẫn phát triển toàn diện và chiến lược, nhưng định danh cho đúng vẫn hơn, vì nó xứng với tầm của quan hệ này, vì chính lợi ích quốc gia của Việt Nam về chính trị, an ninh và đặc biệt là kinh tế.
Mỹ là nước lớn, là trung tâm chính trị, kinh tế, lại là đối tác kinh tế - thương mại rất lớn của Việt Nam. Chúng ta có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia, trong đó có cả các nước Đông Nam Á “sát sườn”, các nước lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Australia, New Zealand… Hơn nữa, mình không so sánh “ông này, ông kia”, nhưng tại sao 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an, thì 4 nước là đối tác chiến lược với Việt Nam, chỉ còn thiếu Mỹ trong danh sách này?
Cho nên, định danh cho đúng thì sẽ phản ánh đúng lợi ích quốc gia, phản ánh đúng chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, tăng vị thế của Việt Nam với tất cả các nước lớn cả trong khu vực và trên toàn cầu.
Quan hệ Việt - Mỹ cũng có những đặc thù, không chỉ “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, mà còn thừa nhận quá khứ để cùng nhau hàn gắn. Hai bên đã vượt qua những khác biệt về thể chế chính trị, xã hội, chứng tỏ hai bên coi trọng và cùng cần nhau, có nhiều lợi ích song trùng và đan xen, cũng đã phải nỗ lực mới vượt qua khác biệt và quan hệ tốt và nhiều chiều như hiện nay. Hai nước cũng nhấn mạnh nguyên tắc “tôn trọng thể chế chính trị của nhau”. Đây là điều quan trọng, tạo cơ sở và tin cậy để nâng cao hơn nữa quan hệ. Có lẽ Mỹ cũng chưa chia sẻ với nước nào về điều này, ngoài các nguyên tắc chung lâu nay như tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.
Với tất cả những dữ liệu đó thì quá đủ để hai nước là đối tác chiến lược. Tôi mong muốn trong chuyến thăm này của bà Harris, khi đà quan hệ hai nước tiến triển, chín muồi như thế, lãnh đạo hai nước sẽ đặt vấn đề này lên bàn nghị sự và đưa ra lộ trình để sớm đạt được.
Chiều ngày 24/8, Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris sẽ tới Việt Nam trong khuôn khổ chuyến công du châu Á chính thức đầu tiên sau khi kết thúc chuyến thăm 3 ngày tại Singapore. Đây là lần đầu tiên một Phó tổng thống Mỹ tới thăm Việt Nam.
Thông báo của Nhà Trắng cho biết, trong chuyến công du này, Phó tổng thống Harris thảo luận với các nhà lãnh đạo Singapore và Việt Nam về nhiều vấn đề cùng quan tâm, trong đó có an ninh khu vực, phản ứng toàn cầu trước đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu và các nỗ lực chung nhằm thúc đẩy trật tự quốc tế dựa trên luật pháp.
Chuyến thăm cũng góp phần tăng cường quan hệ và mở rộng hợp tác kinh tế giữa Washington và các đối tác quan trọng trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trong thời gian ở thăm Việt Nam, bà Harris dự kiến sẽ có các cuộc gặp với các lãnh đạo, trong đó có cuộc hội đàm với Thủ tướng Phạm Minh Chính về tình hình đại dịch Covid-19, cũng như các vấn đề an ninh khu vực và hợp tác kinh tế.
Trong các cuộc gặp, bà Harris có khả năng sẽ đề cập những khoản viện trợ mà Washington có thể dành cho Việt Nam trong bối cảnh cuộc khủng hoảng y tế đang diễn ra hết sức phức tạp tại đây.
Ngoài ra, bà Harris dự kiến sẽ tham dự lễ khánh thành văn phòng của Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) của Mỹ tại Hà Nội. Đây là văn phòng khu vực của CDC Mỹ tại Đông Nam Á nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến các bệnh truyền nhiễm.
|