Tiêu thụ nước giải khát có đường không còn là một thói quen đơn giản, đó là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng. Từ trẻ em đến người trưởng thành, hàng triệu người đang phải trả giá vì những “giọt ngọt” tưởng chừng vô hại ấy.
Tại một phòng khám nhỏ giữa lòng Hà Nội, hình ảnh một cậu bé 15 tuổi nặng tới 110kg khiến không ít người lặng người. Đôi mắt ngây thơ, dáng người nặng nề và nhịp thở gấp gáp… là hệ quả của những tháng ngày chìm trong thức ăn nhanh, bim bim và những lon nước ngọt tưởng như vô hại.
Cậu bé ấy tên là N.G.H. từng là một đứa trẻ khỏe mạnh như bao bạn bè cùng trang lứa. Thế nhưng, chỉ sau vài năm giãn cách vì đại dịch Covid-19, H. đã rơi vào vòng xoáy của béo phì. Mỗi ngày, em uống ít nhất một lon nước ngọt có ga, ăn hai gói bim bim cỡ lớn, và trung bình tiêu thụ tới ba bát cơm mỗi bữa. Việc ít vận động, học trực tuyến kéo dài, cộng thêm thói quen ăn uống lệch chuẩn khiến cậu bé tăng hơn 20kg chỉ trong ba tháng gần đây.
Chỉ số BMI của H. hiện ở mức 35,5, thuộc ngưỡng béo phì nặng, kéo theo hàng loạt hệ lụy như tiền đái tháo đường, tăng acid uric trong máu, thiếu hụt vitamin D… Cơ thể non nớt đang oằn mình gánh chịu hậu quả từ những lựa chọn tưởng chừng vô hại mỗi ngày. Và không chỉ riêng H., đây là thực trạng đáng báo động đang diễn ra trên khắp cả nước.
Tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên mắc béo phì tại Việt Nam đã và đang tăng nhanh chóng trong vòng một thập kỷ qua. Theo Điều tra Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ trẻ từ 5 đến 19 tuổi bị thừa cân, béo phì đã tăng hơn gấp đôi, từ 8,5% lên 19% trong vòng 10 năm. Đây không còn là câu chuyện của vài cá nhân, mà đã trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng.
Điều đáng nói là nhiều bậc cha mẹ không nhận ra con mình đã béo phì, hoặc cho rằng vài ký mỡ không phải vấn đề lớn. Chỉ đến khi trẻ than đau chân, khó thở hoặc dậy thì sớm, họ mới hoảng hốt đưa con đi khám. Nhưng khi đó, các chỉ số sinh học đã bắt đầu lệch lạc, và quá trình điều trị trở nên kéo dài, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, bác sỹ và chính bản thân trẻ.
Béo phì ở trẻ em là tình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ. Theo Thạc sỹ, bác sỹ Trần Thị Kim Ngọc (Chuyên khoa Nhi, Phòng khám Đa khoa Medlatec Thanh Xuân), nguyên nhân chính dẫn đến béo phì ở trẻ là mất cân đối dinh dưỡng, yếu tố di truyền và thói quen sinh hoạt không lành mạnh.
Việc trẻ tiêu thụ quá nhiều thực phẩm giàu chất béo như đồ chiên rán, thức ăn nhanh, cũng như bột đường từ bánh ngọt, nước ngọt, bim bim... khiến lượng năng lượng nạp vào vượt xa năng lượng tiêu hao, dẫn đến tích tụ mỡ thừa trong cơ thể. Ngoài ra, yếu tố di truyền cũng đóng vai trò quan trọng khi trẻ có bố mẹ hoặc anh chị em bị béo phì sẽ có nguy cơ cao hơn. Áp lực học tập, căng thẳng và tổn thương tâm lý khiến trẻ dễ tìm đến thức ăn, đặc biệt là đồ ngọt, như một cách xoa dịu cảm xúc.
Thói quen sinh hoạt không lành mạnh như vừa ăn vừa xem tivi, lười vận động, ngồi hoặc nằm lâu, thiếu ngủ cũng làm gia tăng nguy cơ béo phì. Qua thực tế thăm khám, bác sỹ Ngọc nhận thấy nhiều phụ huynh không nhận ra con mình đã thừa cân hoặc đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng. Phần lớn chỉ đưa trẻ đi khám khi trẻ than đau chân, đau xương hoặc lo ngại về chiều cao.
Cần hiểu rằng béo phì ở trẻ em không chỉ là vấn đề ngoại hình. Đó là cánh cửa dẫn đến hàng loạt hệ lụy sức khỏe như đái tháo đường type 2, tim mạch, gan nhiễm mỡ, tăng huyết áp, thậm chí ung thư. Không chỉ ảnh hưởng thể chất, béo phì còn gây tổn thương tâm lý nghiêm trọng: trẻ dễ bị kỳ thị, xa lánh, tự ti, trầm cảm và học hành sa sút. Tất cả những điều đó có thể bắt nguồn chỉ từ một lon nước ngọt mỗi ngày.
Trong những năm gần đây, tiêu thụ nước giải khát có đường tại Việt Nam tăng vọt, góp phần không nhỏ vào sự bùng phát mạnh mẽ các bệnh không lây nhiễm như tăng huyết áp, tim mạch, đái tháo đường và béo phì ở trẻ em. Nếu không có những biện pháp kiểm soát kịp thời và hiệu quả, nguy cơ về sức khỏe cộng đồng sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng, đe dọa cả thế hệ hiện tại và tương lai.
Bệnh không lây nhiễm, trong đó tăng huyết áp là một trong những vấn đề nổi cộm, đã làm tăng áp lực rất lớn lên hệ thống y tế quốc gia. Trong vòng hơn một thập kỷ, tỷ lệ người trưởng thành mắc tăng huyết áp tại Việt Nam đã tăng từ 15,3% năm 2010 lên 26,2% năm 2021, tương đương với gần 17 triệu người đang sống chung với căn bệnh này. Tăng huyết áp không chỉ là “kẻ giết người thầm lặng” mà còn là nguyên nhân chính dẫn đến hàng loạt biến chứng tim mạch nghiêm trọng, gây ra gánh nặng khổng lồ cho hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Bệnh tim mạch tiếp tục đứng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong với gần 287.200 ca tử vong trong năm 2021, chiếm 39,5% tổng số. Trong đó, bệnh mạch máu não và bệnh tim thiếu máu cục bộ lần lượt chiếm tỷ lệ 21,9% và 12,6%. Đồng thời, tỷ lệ người mắc đái tháo đường cũng tăng nhanh, từ 2,2% năm 2010 lên 7,06% năm 2021, tương ứng với khoảng 4,6 triệu người. Căn bệnh này không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống mà còn làm tăng nguy cơ biến chứng nguy hiểm như suy thận, đột quỵ.
Bên cạnh đó, ung thư cũng đang trở thành một thách thức lớn khi số ca mắc mới tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000, với hơn 180.000 ca mới và 120.000 ca tử vong mỗi năm. Hiện có hơn 400.000 người bệnh ung thư đang sống chung với căn bệnh trong vòng 5 năm qua.
Đáng chú ý, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em Việt Nam cũng tăng nhanh từ 8,5% năm 2010 lên đến 19% năm 2020 ở nhóm từ 5 đến 19 tuổi, đặc biệt tại khu vực thành thị với tỷ lệ gần 27%. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng sức khỏe hiện tại mà còn là lời cảnh báo nghiêm trọng về nguy cơ sức khỏe trong tương lai.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bốn yếu tố nguy cơ chính của bệnh không lây nhiễm gồm hút thuốc, tiêu thụ rượu bia quá mức, chế độ dinh dưỡng không lành mạnh và thiếu vận động thể lực. Trong đó, việc tiêu thụ đồ uống chứa hàm lượng đường cao, đặc biệt nước giải khát có đường, đang ngày càng được xác định là nguyên nhân chủ chốt thúc đẩy sự bùng phát của các bệnh mạn tính.
Tại Việt Nam, lượng tiêu thụ nước giải khát có đường đã tăng gấp bốn lần trong vòng chưa đầy hai thập kỷ, từ 3,44 tỷ lít năm 2013 lên 6,67 tỷ lít năm 2023. Mức tiêu thụ bình quân đầu người cũng tăng mạnh từ 18,5 lít lên 66,5 lít mỗi năm, tương đương mỗi người tiêu thụ hơn 1,3 lít nước giải khát có đường mỗi tuần. Trung bình mỗi ngày, người Việt tiêu thụ gần 18g đường từ các loại đồ uống này, chiếm tới 36% lượng đường tối đa mà WHO khuyến nghị.
Đặc biệt, tình trạng tiêu thụ nước giải khát có đường ở trẻ em và thanh thiếu niên vô cùng đáng báo động. Một khảo sát năm 2019 trên 7.796 học sinh từ 13-17 tuổi cho thấy gần 34% uống nước ngọt có gas ít nhất một lần mỗi ngày, trong khi tỷ lệ hộ gia đình sử dụng sản phẩm này đã tăng từ 56,2% năm 2010 lên gần 70% năm 2016. Nếu không có những biện pháp kiểm soát hiệu quả, mức tiêu thụ nước giải khát có đường dự kiến sẽ tăng trung bình 6,4% mỗi năm trong 5 năm tới, kéo theo nguy cơ gia tăng các bệnh thừa cân, béo phì và đái tháo đường.
PGS-TS.Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng cho biết, nước giải khát có đường là nguyên nhân gây ra ít nhất 9 nhóm bệnh nguy hiểm, bao gồm thừa cân béo phì, tiểu đường tuýp 2, hội chứng rối loạn chuyển hóa, bệnh tim mạch, các bệnh tiết niệu, tiêu hóa, ung thư đường tiêu hóa và cả sa sút trí tuệ.
Việc tiêu thụ nước giải khát có đường không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế. Đường dạng lỏng trong đồ uống được hấp thụ nhanh chóng khiến cơ thể không kịp nhận biết lượng calo nạp vào, làm não bộ không gửi tín hiệu no, dẫn đến việc tiếp tục nạp năng lượng không kiểm soát. Điều này gây dư thừa calo, dẫn đến thừa cân, béo phì, đồng thời làm giảm chất lượng dinh dưỡng do lượng calo này là “năng lượng rỗng”.
Một người lớn uống một lon nước ngọt mỗi ngày trong vòng một năm có thể tăng tới 6,75kg nếu không điều chỉnh khẩu phần ăn. Trẻ em uống nước giải khát có đường thường xuyên có nguy cơ béo phì cao hơn 2,57 lần so với trẻ không uống.
Hơn nữa, đường trong đồ uống làm rối loạn quá trình trao đổi chất, ảnh hưởng đến insulin, cholesterol và các chất chuyển hóa, gây ra huyết áp cao, viêm nhiễm, từ đó làm tăng nguy cơ mắc tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch, sâu răng, hội chứng chuyển hóa và bệnh gan.
Người tiêu thụ từ 354 đến 704ml nước giải khát có đường mỗi ngày có nguy cơ mắc tiểu đường loại 2 cao hơn 26%, đồng thời tăng nguy cơ phát triển các bệnh chuyển hóa khác trên 20%. Nam và nữ trung niên uống ít nhất một ly nước ngọt mỗi ngày có nguy cơ tiền đái tháo đường hoặc đái tháo đường cao hơn 25-32%, và nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa tăng gần 45%.
Nước giải khát có đường cũng làm gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch: nam giới uống 354ml mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh mạch vành hoặc tử vong do bệnh mạch vành trên 20%, trong khi nữ giới uống 708ml/ngày có nguy cơ cao hơn 40%.
Ngoài ra, việc uống nhiều nước giải khát có đường còn làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, bệnh gút và ung thư đại trực tràng. Cụ thể, phụ nữ uống một lon nước giải khát có đường mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh gút tăng 75%, nam giới uống 1 lon tăng 1,45 lần và nếu uống nhiều hơn nữa, nguy cơ tăng lên đến 1,85 lần.
Không chỉ vậy, việc tiêu thụ nhiều nước giải khát có đường còn liên quan đến việc giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ, đồng thời là nguyên nhân hàng đầu gây sâu răng, các bệnh răng miệng và tác động xấu đến sức khỏe xương. Đặc biệt, nguy cơ tử vong do các bệnh tim mạch, ung thư hoặc nguyên nhân khác cũng tăng cao ở những người uống nhiều nước giải khát có đường.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, một lon nước ngọt có ga (330ml) chứa khoảng 35g đường, tương đương gần 7 thìa cà phê mang lại 140 kcal rỗng, không có giá trị dinh dưỡng thực chất. Đường là tác nhân chính góp phần làm gia tăng tỷ lệ béo phì toàn cầu và các bệnh không lây nguy hiểm. Vậy mà, ở nhiều gia đình, nước ngọt vẫn được xem là phần thưởng sau giờ học, hay món giải khát “vô hại” trong các buổi tụ họp.
Nói thêm về chủ đề này, bác sỹ Nguyễn Tuấn Lâm (Tổ chức Y tế Thế giới) cho biết, theo Điều tra Dinh dưỡng Quốc gia 2010-2020, tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng rất nhanh: trẻ dưới 5 tuổi tăng từ 5,6% lên 11,1%; trẻ từ 5-19 tuổi tăng từ 8,5% lên 19%; người trưởng thành tăng từ 12% lên 19,6%. Tỷ lệ đái tháo đường ở người trưởng thành cũng tăng gần gấp đôi, từ 4,1% năm 2015 lên 7,1% năm 2021.
Đồng quan điểm, bà Đinh Thị Thu Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế, nhấn mạnh, sử dụng thường xuyên nước giải khát có đường làm gia tăng nguy cơ mắc các rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường tuýp 2, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, gút…; đồng thời ảnh hưởng xấu đến sức khỏe răng miệng và hệ xương.
Một chai nước cam ép 455ml thông thường có thể chứa tới 15 thìa cà phê đường. Tiêu thụ đường là nguyên nhân chính làm tăng tỷ lệ béo phì và các bệnh không lây nhiễm liên quan đến chế độ ăn. Thừa cân, béo phì hiện là vấn đề sức khỏe đáng lo ngại ở cả người lớn và trẻ em tại Việt Nam.
Béo phì ở trẻ em không chỉ gây dậy thì sớm mà còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây như đái tháo đường, bệnh tim mạch, thậm chí ung thư trong tương lai. Mặt khác, trẻ béo phì dễ bị kỳ thị, cô lập, mất tự tin, dẫn đến trầm cảm, căng thẳng và kết quả học tập suy giảm.
Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nước giải khát có đường tại Việt Nam đang trở nên cấp bách trước thực trạng tiêu thụ tăng mạnh và những nguy cơ sức khỏe liên quan ngày càng nghiêm trọng. Không chỉ giúp giảm mức tiêu thụ, chính sách thuế còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phù hợp với xu hướng quốc tế, cần được triển khai sớm nhằm bảo vệ thế hệ tương lai.
Việc đưa nước giải khát có đường vào diện chịu thuế TTĐB tại Việt Nam đã được dự kiến bắt đầu từ năm 2027, tuy nhiên nhiều chuyên gia đánh giá mốc thời gian này là quá muộn và không thể kéo dài thêm nữa.
Thống kê cho thấy tiêu thụ nước giải khát có đường đã tăng gấp đôi trong vòng một thập kỷ, từ 3,44 tỷ lít năm 2013 lên đến 6,67 tỷ lít năm 2023. Điều này đặt ra nguy cơ rất lớn đối với sức khỏe cộng đồng bởi dù được tạo ngọt bằng đường tự nhiên hay chất tạo ngọt nhân tạo, nước giải khát vẫn kích thích cảm giác thèm đường, tăng tiêu thụ carbohydrate, gây nghiện và dẫn đến hàng loạt bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường, tăng huyết áp và các bệnh không lây nhiễm khác.
TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh từ Viện Chiến lược và Chính sách Y tế cho biết, hiện Việt Nam có khoảng 26,2% người trưởng thành mắc tăng huyết áp, tương đương 17 triệu người, hơn 4,6 triệu người bị tiểu đường, cùng với hơn 180 nghìn ca ung thư mới mỗi năm. Tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì cũng ở mức đáng báo động, 9,4% trẻ dưới 5 tuổi và 19% trẻ trên 5 tuổi, dự báo đến năm 2030, số trẻ em thừa cân béo phì sẽ lên đến gần 2 triệu, đe dọa tương lai của thế hệ trẻ và gây áp lực nặng nề cho hệ thống y tế.
Một nghiên cứu của Đại học Y tế Công cộng chỉ ra rằng, nếu tăng giá bán lẻ nước giải khát có đường lên 20% thông qua thuế TTĐB, tỷ lệ thừa cân béo phì có thể giảm 2,1% và 1,5%, đồng thời ngăn ngừa được khoảng 80.000 ca đái tháo đường, tiết kiệm gần 800 tỷ đồng chi phí y tế. Đây là giải pháp hiệu quả với chi phí thấp, trong bối cảnh tổn thất kinh tế do béo phì và thừa cân đã lên tới 3,69 tỷ USD (tương đương 1,1% GDP năm 2019) và dự kiến tăng gấp 28 lần vào năm 2060.
Việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường có hàm lượng đường trên 5g/100ml không nhằm mục đích cấm hoàn toàn mà là định hướng người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm ít đường hoặc không đường. Doanh nghiệp cũng có thể linh hoạt đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Trên thế giới, đã có 107 quốc gia áp dụng thuế TTĐB với nước giải khát có đường, trong đó 7 quốc gia ASEAN như Lào và Campuchia cũng đã thực hiện. Việt Nam, với vị thế là nước thứ hai trên thế giới ký Công ước Quốc tế về quyền trẻ em, không thể đứng ngoài xu hướng này mà cần nhanh chóng hòa nhập để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Tuy nhiên, vẫn còn băn khoăn về mức thuế suất 8% đang được đề xuất trong dự thảo luật TTĐB sửa đổi cho nước giải khát có hàm lượng đường trên 5g/100ml. Nhiều chuyên gia và tổ chức nhận định đây là mức quá thấp, chỉ bằng khoảng 1/5 khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khó tạo ra tác động rõ rệt trong việc giảm tiêu thụ. Vì vậy, việc giảm mức thuế này không được khuyến khích nhằm đảm bảo hiệu quả chính sách.
Về tính công bằng và khả thi, việc áp thuế đối với nước giải khát có đường trên 5g/100ml không gây bất công với các sản phẩm có hàm lượng đường thấp hơn, hay đồ uống đường pha chế thủ công và các thực phẩm chứa đường khác. Đây là bước đi đầu tiên tập trung kiểm soát nhóm sản phẩm phổ biến và gây hại nhất, đồng thời dễ dàng quản lý và kiểm soát.
Theo kinh nghiệm quốc tế, nước giải khát có đường được sản xuất hàng loạt trên dây chuyền hiện đại với nhãn mác dinh dưỡng rõ ràng, thuận tiện cho việc kiểm soát và thu thuế. Đây cũng là nền tảng để mở rộng áp dụng thuế với các sản phẩm khác như đồ uống dùng chất tạo ngọt, xi rô ngô, bột pha trà sữa trong tương lai.
Tại Việt Nam, theo ước tính năm 2019, riêng tổn thất về kinh tế do thừa cân và béo phì đã là 3,69 tỷ USD, chiếm 1,1% GDP chưa kể đến chi phí cho các bệnh không lây nhiễm liên quan khác. Đến năm 2060, dự báo những chỉ số này sẽ tăng lên 103,1 tỷ USD, chiếm 2,8% GDP; đồng nghĩa với việc tổng chi phí sẽ tăng gấp 28 lần.
Tại nghị trường Quốc hội, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Quốc hội, nhấn mạnh việc bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu thuế TTĐB nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo vệ sức khỏe nhân dân, phù hợp với khuyến cáo của WHO, UNICEF và Bộ Y tế. Đây là bước đầu trong các giải pháp hạn chế tiêu thụ sản phẩm nhiều đường.
Nhiều đại biểu Quốc hội cũng ủng hộ mở rộng đối tượng chịu thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng đồ uống nhiều đường, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và định hướng phát triển bền vững. Ông Phan Văn Mãi khẳng định đây là sự nhất quán với chủ trương bảo vệ sức khỏe và là bước đi đầu tiên trong hành trình kiểm soát tiêu thụ sản phẩm chứa nhiều đường, vốn là nguyên nhân chính gây ra thừa cân, béo phì và bệnh không lây nhiễm.
Đại biểu Lê Hoàng Anh (Gia Lai) nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách thuế tiến bộ, lấy sức khỏe người dân, đặc biệt thế hệ tương lai làm trung tâm. Ông cho rằng mức thuế 8-10% dự kiến áp dụng vào 2027-2028 là quá thấp và chậm so với mức độ nguy cơ hiện nay. Ông đề xuất giữ mức thuế 10% từ năm 2026 và nâng lên 20% vào năm 2030, áp thuế tuyệt đối theo hàm lượng đường như mô hình Thái Lan. Chính sách này không nhằm cấm đoán mà tạo động lực người tiêu dùng chọn lựa sản phẩm lành mạnh hơn, giảm gánh nặng bệnh tật và chi phí y tế trong tương lai.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết trong quá trình xây dựng luật có hai luồng ý kiến trái chiều: một bên chưa cần thiết áp thuế ngay, bên kia thúc giục áp thuế càng sớm càng tốt. Ông phân tích Việt Nam là một trong những nước tiêu thụ nước giải khát có đường tăng cao, dẫn đến nguy cơ béo phì và các bệnh liên quan. WHO khuyến cáo thuế TTĐB tối thiểu 20%, hiện có 107 quốc gia và 7/11 nước ASEAN đã áp thuế này. Bộ Tài chính đề xuất lộ trình thuế 8% năm 2027 và 10% năm 2028 nhằm tránh sốc cho doanh nghiệp.
Ông cũng khẳng định, các sản phẩm như nước dừa, nước khoáng thiên nhiên, sữa và các sản phẩm từ sữa không chịu thuế TTĐB theo tiêu chuẩn quốc gia hiện hành. Bộ trưởng cam kết hoàn thiện luật sao cho vừa bảo vệ sức khỏe vừa tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp.
Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam, TS. Angela Pratt, nhận định đây là thời điểm phù hợp để áp dụng thuế nhằm ngăn chặn xu hướng tiêu thụ nước giải khát có đường tăng cao và các hệ quả tiêu cực. WHO cũng cảnh báo các ngành công nghiệp có thể phản đối với lý do tác động tiêu cực đến kinh tế, nhưng các nghiên cứu toàn cầu chứng minh thuế giúp người tiêu dùng chuyển sang lựa chọn sản phẩm ít đường hơn, đồng thời thúc đẩy nhà sản xuất điều chỉnh sản phẩm.
Bên cạnh đó, WHO hoan nghênh chính sách của Bộ Y tế Việt Nam về khám sức khỏe định kỳ miễn phí năm 2030, trong đó có thể dùng một phần nguồn thu từ thuế thuốc lá, rượu bia và nước giải khát có đường để tài trợ, giúp phát hiện sớm bệnh và giảm chi phí điều trị, nâng cao sức khỏe cộng đồng. WHO cũng lưu ý cần cân nhắc kỹ việc trích riêng nguồn thu nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý ngân sách.
Kết luận số 176 của Tổng Bí thư Tô Lâm ngày 25/4/2025 cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng trong phòng chống dịch bệnh, quản lý bệnh mạn tính và xây dựng lối sống lành mạnh, trong đó có hạn chế sử dụng nước giải khát có đường, rượu bia, thuốc lá để giảm gánh nặng bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam.
Việc áp thuế TTĐB với nước giải khát có đường không chỉ là một chính sách kinh tế đơn thuần mà còn là một hành động thiết thực, thể hiện trách nhiệm và tầm nhìn của xã hội trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Trì hoãn hay chần chừ không chỉ khiến gánh nặng bệnh tật gia tăng, mà còn kéo dài những tổn thất về kinh tế và nhân lực mà đất nước phải gánh chịu.
Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt dành cho nước ngọt có đường là bước đi cần thiết và cấp bách, mở ra cơ hội để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm lành mạnh hơn, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và toàn xã hội hướng tới một tương lai phát triển bền vững, khỏe mạnh. Hãy hành động ngay hôm nay để bảo vệ thế hệ mai sau khỏi những hệ lụy nghiêm trọng của thói quen tiêu thụ nước ngọt có đường, bởi sức khỏe cộng đồng chính là tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia.
Việc áp thuế đủ mạnh đối với nước giải khát có đường sẽ góp phần làm giảm thiểu các bệnh sâu răng, béo phì và tiểu đường và phòng ngừa các bệnh không lây nhiễm khác. Theo kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Y tế Công cộng, nếu áp thuế để tăng giá bán lẻ nước giải khát có đường lên 20% như khuyến cáo của WHO thì tỷ lệ thừa cân, béo phì tại Việt Nam có thể giảm lần lượt 2,1% và 1,5%, phòng tránh được 80.000 ca đái tháo đường, tiết kiệm cho hệ thống y tế gần 800 tỷ đồng.