Với một đô thị đặc biệt như TP.HCM - trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại lớn nhất cả nước, ban đầu Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) có thể được xem là “câu chuyện của vùng ven”. Tuy nhiên, từ khi sáp nhập, chương trình OCOP tại TP.HCM đã bước sang một giai đoạn mới, cả về quy mô lẫn tư duy phát triển.

Khi Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) chính thức được triển khai tại Việt Nam từ năm 2018 theo Quyết định 490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ít ai hình dung rằng, từ những sản phẩm làng quê quen thuộc, OCOP sẽ dần mở ra một không gian phát triển mới cho kinh tế nông thôn, nơi giá trị không chỉ nằm ở sản lượng, mà ở câu chuyện, bản sắc và chuỗi giá trị phía sau mỗi sản phẩm.
Những ngày đầu triển khai, không ít doanh nghiệp, hợp tác xã còn bỡ ngỡ trước các tiêu chí, quy trình và yêu cầu đánh giá khắt khe của OCOP. Nhưng rất nhanh sau đó, thực tiễn cho thấy chương trình này mở ra một cơ hội lớn khi biến những sản phẩm nhỏ lẻ, manh mún thành hàng hóa có thương hiệu; đưa sản phẩm địa phương bước vào chuỗi phân phối hiện đại; nâng cấp quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc…
Quan trọng hơn, OCOP tạo động lực để doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư dài hạn, gắn lợi ích kinh tế với sinh kế cộng đồng và giá trị văn hóa bản địa.
Với một đô thị đặc biệt như TP.HCM - trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại lớn nhất cả nước, sau khi tái cấu trúc từ ngày 1/7/2025, chương trình OCOP đã bước sang một giai đoạn mới, cả về quy mô lẫn tư duy phát triển.
Thay vì chỉ giới hạn ở 5 huyện ngoại thành như giai đoạn đầu, OCOP được mở rộng triển khai trên toàn địa bàn thành phố. Không gian OCOP vì thế không còn bó hẹp trong nông nghiệp thuần túy, mà lan tỏa sang nhiều lĩnh vực có giá trị gia tăng cao. TP.HCM đồng thời tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP ở 6 nhóm lĩnh vực, gồm: thực phẩm, đồ uống, thảo dược, vải và may mặc, lưu niệm - nội thất - trang trí; dịch vụ du lịch cộng đồng và điểm du lịch.
Nhờ đó, từ những vùng rau ven đô, các làng nghề truyền thống, đến những doanh nghiệp đầu tư bài bản vào chế biến sâu, câu chuyện OCOP tại TP.HCM đang dần hiện ra như một bức tranh đa sắc, vừa mang hơi thở nông thôn, vừa phản chiếu tư duy kinh tế đô thị hiện đại. Đó cũng là nền tảng để TP.HCM không chỉ phát triển OCOP theo chiều rộng, mà từng bước xác lập những sản phẩm OCOP chiến lược, đủ sức đứng vững trên thị trường nội địa và hướng tới những phân khúc giá trị cao hơn.

Đó là buổi sáng ở vùng trồng rau xã Đông Thạnh (huyện Hóc Môn cũ), những luống cải thìa xanh mướt nối nhau trải dài, còn đọng hơi sương. Trong khu nhà sơ chế, công nhân của HTX Rasafood đang tất bật chuẩn bị một lô hàng giao cho đối tác trên địa bàn TP.HCM.
Nhịp làm việc khẩn trương, nhưng không vội vã. Giữa không gian đó, ông Mai Văn Khánh, Giám đốc HTX Rasafood chậm rãi kể lại thời điểm hợp tác xã bắt đầu “bén duyên” với OCOP.
“Lúc đó, vừa làm vừa học”, ông nói. Rasafood là một trong 18 chủ thể OCOP đầu tiên của TP.HCM, nên những ngày đầu triển khai không tránh khỏi bỡ ngỡ, thậm chí áp lực. Nhưng chính quá trình này đã giúp hợp tác xã hiểu rõ hơn OCOP không chỉ là một danh hiệu, mà là một cách tiếp cận hoàn toàn mới trong phát triển sản phẩm.
Theo ông Khánh, khi TP.HCM chính thức triển khai xây dựng các mô hình OCOP tại các quận, huyện, HTX Rasafood đã chủ động tiếp cận chương trình, coi đây là hướng đi phù hợp để nâng giá trị nông sản trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Với đặc thù của huyện Hóc Môn cũ, nay là xã Đông Thạnh, nơi có thế mạnh về các loại rau ăn lá, Rasafood lựa chọn rau làm sản phẩm OCOP chủ lực. Từ sự hướng dẫn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM (cũ), nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM, cùng định hướng của chính quyền địa phương trong chương trình xây dựng nông thôn mới, hợp tác xã từng bước định hình câu chuyện OCOP gắn với chính vùng đất mình đang canh tác.
“OCOP không đơn thuần là làm ra một sản phẩm nông nghiệp rồi xin chứng nhận. Đây là một quy trình đánh giá rất chặt chẽ, từ cấp sở đến cấp thành phố, với sự tham gia của các hội đồng thẩm định. Hội đồng không chỉ xem sản phẩm, mà đánh giá toàn bộ chuỗi giá trị”, ông Khánh chia sẻ.
Do đó, HTX Rasafood bắt đầu xây dựng hồ sơ OCOP từ tháng 12/2022. Sau quá trình hoàn thiện theo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn, đến ngày 28/3/2023, sản phẩm đầu tiên của hợp tác xã chính thức được công nhận OCOP. Đó là rau cải thìa OCOP 3 sao của TP.HCM.
Theo ông Khánh, quá trình thẩm định kéo dài khoảng 4-5 tháng, với hệ thống tiêu chí chấm điểm rất cụ thể. Đạt chứng nhận mới chỉ là bước khởi đầu. Sau đó, hợp tác xã tiếp tục hoàn thiện các khâu còn lại, đặc biệt là truy xuất nguồn gốc, yếu tố ngày càng quan trọng đối với thị trường.
Hiện nay, người tiêu dùng chỉ cần quét mã QR trên bao bì là có thể biết rõ từng lô hàng với ngày trồng, quy trình canh tác, cải tạo đất, thời gian thu hoạch. Sự minh bạch này không chỉ giúp nâng cao niềm tin thị trường, mà còn tạo nền tảng để sản phẩm OCOP từng bước bước ra khỏi “vùng trồng”, tiếp cận hệ thống phân phối rộng lớn hơn của đô thị.
Từ những luống rau ở Đông Thạnh, câu chuyện OCOP của HTX Rasafood cho thấy OCOP không phải là câu chuyện của những xưởng sản xuất lớn, mà bắt đầu từ những chủ thể nhỏ, với khát vọng đưa sản phẩm địa phương đi xa hơn. Và khi những câu chuyện như vậy ngày càng nhiều, OCOP tại TP.HCM dần vượt ra khỏi phạm vi một chương trình thí điểm, để hình thành nên một bức tranh rộng lớn hơn về hệ sinh thái sản phẩm đặc trưng của đô thị đặc biệt này.

Nếu câu chuyện của HTX Rasafood cho thấy OCOP bắt đầu từ những luống rau vùng ven, thì hành trình của Công ty cổ phần Tập đoàn Xuân Nguyên lại cho thấy OCOP cũng là phép thử lớn đối với những doanh nghiệp đã có nền tảng sản xuất và thị trường.
Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Tổng giám đốc Tập đoàn Xuân Nguyên nhớ lại thời điểm OCOP được triển khai trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Ngay từ đầu, doanh nghiệp đã đánh giá rất cao ý nghĩa của chương trình, bởi OCOP không chỉ dừng ở việc chứng nhận sản phẩm, mà hướng tới chuẩn hóa toàn bộ chuỗi giá trị gắn với địa phương.
“Tuy nhiên, thời điểm đó, nhiều địa phương triển khai OCOP sớm hơn, trong khi TP.HCM, dù là đô thị lớn lại triển khai chậm hơn. Tôi từng đề xuất thành phố cần khẩn trương, bởi ngay tại TP.HCM cũng có rất nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp sản xuất sản phẩm”, ông Vũ chia sẻ.
Sau khi TP.HCM chính thức triển khai chương trình, với sự phối hợp của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ), nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM, cùng các sở, ngành liên quan, Xuân Nguyên trở thành một trong những doanh nghiệp đầu tiên tham gia OCOP. Trong đợt xét chọn đầu tiên, doanh nghiệp đã được đánh giá 2 sản phẩm OCOP 4 sao, những sản phẩm 4 sao đầu tiên của TP.HCM.
Đến nay, Xuân Nguyên có 6 sản phẩm OCOP 4 sao gồm hà thủ ô 5 trong 1, mật ong rừng sữa ong chúa, mật ong nghệ viên vàng, mật ong nghệ viên đen, mật ong nhân sâm, tinh bột nghệ vàng. Doanh nghiệp dự kiến nộp thêm khoảng 4 sản phẩm OCOP trong năm 2026.
Theo ông Vũ, điều quan trọng nhất khi tham gia OCOP là doanh nghiệp buộc phải nhìn lại chính mình. “Máy móc, thiết bị chỉ là một phần, nhưng không phải là tất cả. Quan trọng hơn là phải củng cố vùng nguyên liệu theo hướng bền vững, ổn định đầu vào, đầu ra, đồng thời quan tâm đến người lao động, đến an sinh xã hội”, ông nói.
Tổng giám đốc Xuân Nguyên cho hay, có những tiêu chí trước đây doanh nghiệp chưa thật sự chú trọng, thì khi tham gia OCOP buộc phải điều chỉnh, đầu tư thêm. Để đạt điểm cao, doanh nghiệp gần như phải rà soát lại toàn bộ hệ thống đang có, cái gì tốt thì duy trì, cái gì còn thiếu thì bổ sung.
Một điểm mà ông Vũ đặc biệt đánh giá cao là OCOP không phải câu chuyện “xin - cho” chứng nhận. Thay vào đó, doanh nghiệp được tiếp cận một quá trình hỗ trợ toàn diện.
“Khi tham gia OCOP, doanh nghiệp buộc phải đầu tư, nhưng song song đó cũng được hỗ trợ rất nhiều, từ kiến thức sản xuất bền vững, cách tổ chức vùng nguyên liệu, đến định hướng thị trường, kênh phân phối, marketing trong nước và xuất khẩu”, ông Vũ nói.

Từ những mô hình tiên phong như HTX Rasafood hay doanh nghiệp Xuân Nguyên, OCOP tại TP.HCM đã vượt qua giai đoạn thử nghiệm ban đầu để bước vào một giai đoạn phát triển có quy mô và định hướng rõ ràng hơn.
Theo thống kê, tính đến tháng 9/2025, TP.HCM ghi nhận 1.026 sản phẩm OCOP, chủ yếu tập trung ở nhóm 3-4 sao và chưa có sản phẩm đạt chuẩn 5 sao quốc gia. Dù vậy, TP.HCM vẫn nằm trong nhóm 5 địa phương có số lượng sản phẩm OCOP nhiều nhất cả nước, cho thấy sức lan tỏa mạnh mẽ của chương trình tại một đô thị đặc biệt, nơi sản xuất nông nghiệp không phải là lợi thế truyền thống.
Đánh giá giai đoạn 2020-2025, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” tại TP.HCM đạt nhiều kết quả tích cực khi thu hút đông đảo doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ kinh doanh tham gia. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy không ít hạn chế như quy mô sản xuất còn nhỏ, tiêu chuẩn quốc tế chưa được áp dụng đồng bộ, hoạt động truyền thông còn manh mún và đặc biệt là thiếu cơ chế hỗ trợ dài hạn để các chủ thể OCOP phát triển bền vững sau khi được công nhận.
Những “điểm nghẽn” này cũng chính là cơ sở để TP.HCM điều chỉnh cách tiếp cận OCOP trong giai đoạn tiếp theo, chuyển trọng tâm từ mở rộng số lượng sang nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh.
Theo đó, giai đoạn 2025-2030, TP.HCM đặt mục tiêu nâng tổng số sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên lên hơn 2.000 sản phẩm, trong đó có 5-10 sản phẩm đạt chuẩn 5 sao quốc gia, đủ năng lực cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu. Đây được xem là bước chuyển mang tính chiến lược, nhằm đưa các sản phẩm đặc trưng của TP.HCM thoát khỏi “vòng an toàn” của thị trường nội địa, tiến xa hơn trên bản đồ hàng hóa Việt Nam chất lượng cao.
Bước vào giai đoạn mới, thành phố xác định chất lượng và tính bền vững là trụ cột xuyên suốt. Các nhóm sản phẩm có lợi thế như thực phẩm chế biến, đồ uống, thủ công mỹ nghệ được ưu tiên hỗ trợ nâng cấp. Doanh nghiệp và hợp tác xã được khuyến khích ứng dụng công nghệ tiên tiến, sử dụng nguyên liệu sạch, thân thiện môi trường, nhằm đáp ứng các tiêu chí ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế.
Ông Nguyễn Văn Đa, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM cho biết, Sở sẽ phối hợp với các đơn vị chức năng để tập trung nâng cấp nhóm sản phẩm 4 sao, hướng tới mục tiêu đạt chuẩn 5 sao quốc gia. Theo ông, để đạt được cấp độ cao nhất, các chủ thể OCOP phải đầu tư bài bản vào thiết kế mẫu mã, bao bì, chất lượng sản phẩm, đồng thời đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn xuất khẩu của từng thị trường.
Song song với định hướng nâng chuẩn, TP.HCM cũng đang xem xét mở rộng chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 09, tạo thêm dư địa tiếp cận vốn cho doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp trên phạm vi toàn thành phố. Đây được kỳ vọng là cú hích quan trọng, giúp các chủ thể OCOP mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đại diện Sở Tài chính TP.HCM cho biết, Sở đã tham mưu điều chỉnh Nghị quyết 09 để mở rộng phạm vi áp dụng sang tỉnh Bình Dương cũ và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũ. Hồ sơ điều chỉnh hiện đang trình HĐND thành phố xem xét và dự kiến được thông qua vào quý I/2026. Trong thời gian chờ nghị quyết mới, chính sách hỗ trợ vẫn tạm thời áp dụng cho các dự án đầu tư trên địa bàn TP.HCM (cũ).
TP.HCM xác định rõ, xúc tiến thương mại sẽ là khâu đột phá trong giai đoạn tới, là bước chuyển quan trọng từ “đánh giá, công nhận” sang “phát triển thị trường, gia tăng giá trị”, để OCOP không chỉ dừng lại ở danh hiệu, mà trở thành một trụ cột trong chiến lược phát triển sản phẩm đặc trưng của Thành phố.

Từ định hướng chiến lược và cơ chế hỗ trợ, câu hỏi đặt ra là doanh nghiệp và hợp tác xã OCOP cần làm gì để tận dụng tốt chính sách và TP.HCM cần tiếp tục hoàn thiện những “mắt xích” nào để OCOP thực sự trở thành động lực phát triển bền vững?
Thực tế cho thấy, thời gian qua, TP.HCM đã liên tục tổ chức nhiều chương trình xúc tiến, quảng bá nhằm đưa sản phẩm OCOP đứng vững hơn trên thị trường. Mới đây nhất, tại khu vực Bãi Sau, phường Vũng Tàu, TP.HCM, Sở Công thương TP.HCM phối hợp với các sở, ngành và địa phương tổ chức Tuần lễ sản phẩm OCOP, đặc sản vùng miền và Kết nối cung - cầu giữa TP.HCM và các tỉnh, thành năm 2025. Sự kiện không chỉ mở rộng không gian tiêu thụ, mà còn tạo cơ hội để các chủ thể OCOP tiếp cận trực tiếp hệ thống phân phối và người tiêu dùng.
Song song đó, thành phố duy trì đều đặn nhiều hoạt động xúc tiến như: Tuần lễ OCOP - đặc sản vùng miền gắn với Tết cổ truyền, sự kiện Kết nối giao thương sản phẩm OCOP TP.HCM, Chợ phiên OCOP trên nền tảng số, OCOP gắn kết với du lịch, Lễ công nhận sản phẩm OCOP… Những sự kiện này từng bước hình thành một “hệ sinh thái OCOP”, nơi sản phẩm không chỉ được trưng bày, mà còn được kể câu chuyện, được thử nghiệm thị trường và được kết nối đầu ra.
Theo Phó chủ tịch UBND TP.HCM Bùi Minh Thạnh, TP.HCM mới sau sáp nhập sở hữu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đa dạng, cùng nhiều sản phẩm truyền thống, làng nghề đặc trưng và các vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản được hình thành từ lâu đời. Trong suốt quá trình triển khai OCOP, Thành ủy, HĐND, UBND TP.HCM, các sở, ngành và chính quyền địa phương đã dành nhiều nguồn lực đồng hành cùng các chủ thể sản xuất.
Một lợi thế nổi bật khác của TP.HCM là hệ thống phân phối hiện đại và đa dạng. Hầu hết các hệ thống bán lẻ lớn trong nước và quốc tế đều tập trung tại đây, và nhiều hệ thống đã dành không gian riêng cho sản phẩm OCOP.
“Khi đạt chứng nhận OCOP, sản phẩm được hỗ trợ rất nhiều trong hệ thống phân phối. Ngoài việc bày bán ở quầy kệ thông thường, sản phẩm còn được trưng bày tại khu OCOP riêng, tạo hiệu ứng truyền thông và tâm lý tin tưởng cho người tiêu dùng”, ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Xuân Nguyên chia sẻ.
Theo ông Vũ, trước khi tham gia OCOP, sản phẩm của Xuân Nguyên vẫn có mặt trong các hệ thống siêu thị, nhưng phải cạnh tranh hoàn toàn dựa trên doanh số và thứ hạng bán hàng. Sau khi được chứng nhận OCOP, ngoài việc tiếp tục bán ở kênh thông thường, sản phẩm còn được trưng bày tại khu OCOP chuyên biệt, giúp doanh thu và tốc độ tiêu thụ cải thiện rõ rệt.
“Hiện nay, so với giai đoạn trước khi tham gia OCOP, sản lượng tiêu thụ tại thị trường nội địa tăng khoảng 40%. Trong bối cảnh sức mua chung còn khó khăn, đây là mức tăng trưởng tích cực”, ông Vũ cho biết.
Trong các kênh phân phối, hệ thống siêu thị đang là kênh tiêu thụ OCOP hiệu quả nhất nhờ chính sách ưu đãi và không gian trưng bày riêng. Kênh truyền thống vẫn được duy trì, song thiếu lợi thế về nhận diện. Còn thương mại điện tử cũng đã để lại nhiều dấu ấn tích cực cho các sản phẩm OCOP.
Ở quy mô hợp tác xã, câu chuyện của HTX Rasafood cho thấy hiệu quả rõ nét của OCOP khi gắn với xúc tiến thị trường. Trước khi tham gia OCOP, Rasafood đã sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP từ năm 2018, với đầu ra chủ yếu là bếp ăn công nghiệp, trường học và một số cửa hàng thực phẩm.
Sau khi được chứng nhận OCOP, sản phẩm của hợp tác xã có cơ hội tham gia sâu hơn vào các chương trình xúc tiến do TP.HCM tổ chức. Theo ông Mai Văn Khánh, Giám đốc HTX Rasafood, các chương trình này giúp doanh nghiệp và hợp tác xã tiếp cận thị trường một cách bài bản hơn.
“Người tiêu dùng được sử dụng thử và phản hồi rằng sản phẩm có sự khác biệt so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đó là tín hiệu rất tích cực”, ông Khánh nói.
Về sản lượng, trước khi có chứng nhận OCOP, mỗi tháng HTX Rasafood cung ứng ra thị trường khoảng 1-2 tấn rau. Sau khi đạt OCOP, sản lượng tăng lên 2-3 tấn/tháng, tương đương mức tăng trưởng 10-20%.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, hợp tác xã đã từng bước mở rộng vùng trồng. Dự kiến trong năm 2026, HTX sẽ mở rộng thêm gần 1 ha diện tích canh tác, tạo nền tảng để phát triển thêm các sản phẩm OCOP mới như mồng tơi, rau dền, rau lang.
Từ những xưởng sản xuất nhỏ đến hệ thống phân phối hiện đại, từ vùng rau ngoại thành đến kệ hàng siêu thị, OCOP tại TP.HCM đang dần cho thấy vai trò của một chiến lược phát triển sản phẩm đặc trưng trong lòng đô thị lớn. Khi chính sách, thị trường và nỗ lực của doanh nghiệp cùng hội tụ, OCOP không chỉ là câu chuyện của nông thôn, mà trở thành một phần trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững của TP.HCM trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những cơ hội mở ra từ thị trường, chính sách và hệ thống phân phối, hành trình OCOP tại TP.HCM cũng đặt doanh nghiệp trước không ít thách thức, đặc biệt khi chương trình này được thiết kế với một bộ tiêu chí toàn diện, đòi hỏi sự thay đổi từ gốc rễ.
Theo ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Xuân Nguyên, OCOP không chỉ là câu chuyện đánh giá một sản phẩm đơn lẻ, mà là quá trình rà soát toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất, kinh doanh. Từ vùng nguyên liệu, quy trình, máy móc, công nghệ, môi trường, an sinh xã hội cho đến việc tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, tất cả đều được đưa vào hệ thống chấm điểm.
“OCOP là bộ tiêu chí rất rộng và rất sâu. Hội đồng không chỉ hỏi sản phẩm có tốt hay không, mà còn xem doanh nghiệp làm ra sản phẩm đó như thế nào, vùng nguyên liệu ở đâu, công nghệ ra sao, người lao động được bảo đảm thế nào và doanh nghiệp có tuân thủ đầy đủ các quy định hay không”, ông Vũ chia sẻ.
Một trong những tiêu chí then chốt của OCOP là sản phẩm phải được sản xuất tại địa phương, với tỷ lệ hàm lượng nguyên liệu tại chỗ nhất định. Đây cũng chính là điểm khiến nhiều doanh nghiệp tại TP.HCM gặp khó, trong bối cảnh thành phố là một đô thị lớn, quỹ đất nông nghiệp hạn chế.
“Ví dụ lĩnh vực mật ong, việc nuôi ong tại TP.HCM không nhiều. Doanh nghiệp vẫn có vùng nuôi trên địa bàn thành phố, nhưng sản lượng không lớn, trong khi một phần nguyên liệu phải lấy từ các tỉnh khác”, ông Vũ nói.
Trong điều kiện đó, nhiều doanh nghiệp buộc phải tìm hướng đi khác để đáp ứng tiêu chí OCOP. Với Xuân Nguyên, lợi thế nằm ở chế biến sâu. Các sản phẩm như hà thủ ô, mật ong, tinh bột nghệ… có thể đáp ứng yêu cầu OCOP nhờ năng lực công nghệ, quy trình sản xuất và giá trị gia tăng được tạo ra trong khâu chế biến.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thành phố mở rộng không gian phát triển, việc sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang mở ra dư địa mới, phần nào tháo gỡ “nút thắt” này.
Nhờ đó, không gian sản xuất của TP.HCM giờ không còn bó hẹp như trước. Khi liên kết vùng được thúc đẩy, doanh nghiệp OCOP cũng có thêm cơ hội xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đáp ứng tốt hơn các tiêu chí của chương trình.
Không dừng ở vùng nguyên liệu, bộ tiêu chí OCOP còn đánh giá rất chi tiết các yếu tố như máy móc thiết bị, quy trình sản xuất, mức độ ứng dụng công nghệ, trách nhiệm xã hội, môi trường, phòng cháy chữa cháy… Mỗi tiêu chí đều có thang điểm cụ thể; trong đó, sản phẩm đạt từ 70-90 điểm được xếp hạng 4 sao.
Theo ông Vũ, để đạt được mức điểm này, doanh nghiệp gần như phải “soi lại” toàn bộ hệ thống vận hành của mình. Những yếu tố trước đây chưa được chú trọng đúng mức, nay trở thành điều kiện bắt buộc nếu muốn tham gia OCOP một cách bài bản.
Từ thực tế đó có thể thấy, OCOP tại TP.HCM không phải con đường dễ đi. Nhưng chính những yêu cầu khắt khe ấy lại buộc doanh nghiệp phải tái cấu trúc, nâng chuẩn và tư duy dài hạn hơn - điều kiện cần để các sản phẩm OCOP không chỉ dừng lại ở danh hiệu, mà thực sự đứng vững trên thị trường.

Trong khi nhiều doanh nghiệp OCOP vẫn đang loay hoay với bài toán vùng nguyên liệu, chi phí và thị trường, thực tế tại khu vực Hóc Môn cho thấy, ngay trong những điểm nghẽn, vẫn có những mô hình tự thân mở ra cơ hội.
Một trong những điểm nhấn đáng chú ý là sự ra đời của Câu lạc bộ OCOP khu vực Hóc Môn cũ (nay là xã Đông Thạnh), không gian kết nối dành cho các chủ thể OCOP cùng trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ cách làm và từng bước hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Theo ông Mai Văn Khánh, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ, mô hình này không chỉ mang tính phong trào, mà đang dần hình thành một hệ sinh thái OCOP thu nhỏ.
Hiện nay, câu lạc bộ đã xây dựng 2 điểm trưng bày và bán sản phẩm OCOP, với số lượng sản phẩm tăng khoảng 20%. Đáng chú ý, các sản phẩm không chỉ đến từ các chủ thể OCOP tại địa phương, mà còn được kết nối từ nhiều tỉnh, thành khác, tạo nên bức tranh đa dạng về sản phẩm đặc trưng vùng miền.
UBND xã đã bố trí các điểm trưng bày tại vị trí thuận lợi ngay trung tâm xã Đông Thạnh, giúp việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm OCOP đến người dân và khách tham quan trở nên dễ dàng hơn. Đây được xem là một trong những điều kiện quan trọng để OCOP tiếp cận thị trường theo cách trực quan, gần gũi.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế, ông Khánh cho rằng sức mua vẫn cần thêm thời gian để tăng mạnh. Một phần bởi giá sản phẩm OCOP thường cao hơn hàng hóa thông thường; phần khác do người tiêu dùng vẫn cần thời gian làm quen, trải nghiệm và hình thành thói quen tiêu dùng dựa trên chất lượng, nguồn gốc và câu chuyện sản phẩm.
Từ thực tiễn triển khai, với vai trò vừa là chủ thể OCOP, vừa là Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ OCOP khu vực Hóc Môn (cũ), ông Khánh kiến nghị TP.HCM cần tiếp tục đẩy mạnh các chương trình quảng bá sản phẩm OCOP sau chứng nhận, thay vì chỉ dừng lại ở khâu đánh giá, công nhận.
Bên cạnh đó, thành phố nên mở rộng các sân chơi, câu lạc bộ OCOP để các chủ thể có không gian kết nối, học hỏi lẫn nhau, đồng thời hỗ trợ hình thành thêm các điểm bán OCOP chuyên biệt, giúp sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng.
Từ những mô hình này, có thể thấy OCOP không chỉ là câu chuyện chính sách từ trên xuống, mà đang dần hình thành những cộng đồng tự vận động từ dưới lên. Khi các chủ thể cùng liên kết, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau, OCOP không chỉ vượt qua các điểm nghẽn hiện hữu, mà còn mở ra những hướng đi bền vững hơn cho sản phẩm địa phương ngay giữa một đô thị lớn như TP.HCM.