
-
Phác thảo bức tranh lợi nhuận ngân hàng
-
Quy định về mức hỗ trợ và phương thức hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
-
Siết tỷ lệ đòn bẩy từ 1/7: Không cản trở hoạt động phát hành trái phiếu của doanh nghiệp
-
Khắc phục những bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2% -
Nghị quyết 68: Ngân hàng thương mại tiếp sức kinh tế tư nhân "cất cánh"
Siết tỷ lệ đòn bẩy từ ngày 1/7: Không cản trở hoạt động phát hành trái phiếu của doanh nghiệp
![]() |
Trong báo cáo vừa phát hành, chuyên gia phân tích VIS Rating cho rằng, quy định về siết tỷ lệ đòn bẩy nói trên giúp khung pháp lý cho các công ty không đại chúng trở nên đồng bộ với các công ty đại chúng theo Luật chứng khoán 2024 mà vẫn không cản trở hoạt động phát hành trái phiếu của doanh nghiệp.
“Chúng tôi cho rằng quy định mới sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ. Dữ liệu của chúng tôi về toàn bộ các công ty không đại chúng ở Việt Nam trong 3 năm gần đây cho thấy chỉ có khoảng 25% các công ty có tỷ lệ này vượt quá 5 lần hoặc là có vốn chủ sở hữu âm”, báo cáo nhận định.
Mặc dù việc siết tỷ lệ đòn bẩy không ảnh hưởng lớn đến thị trường, song VIS Rating cũng cho rằng, tỷ lệ đòn bẩy cao không phải là nguyên nhân dẫn tới chậm trả nợ trái phiếu và khuyến nghị nhà đầu tư không nên coi đây là yếu tố quan trọng nhất khi xem xét đầu tư trái phiếu.
Dữ liệu của VIS Rating cho thấy, nguyên nhân khiến 182 doanh nghiệp chậm trả trái phiếu thời gian qua không phải do đòn bẩy cao mà chủ yếu do dòng tiền yếu và quản lý thanh khoản yếu kém.
Cụ thể, chưa đến 1/4 số doanh nghiệp trong số 182 doanh nghiệp nói trên có tỷ lệ đòn bẩy vượt quá 5 lần hoặc vốn chủ sở hữu âm. Tỷ lệ đòn bẩy của 3/4 doanh nghiệp chậm trả trái phiếu còn lại chỉ là 2,8 lần, bằng xấp xỉ mức bình quân của các tổ chức phát hành khác không bị chậm trả trái phiếu.
Theo thống kê của công ty, mặc dù tỷ lệ đòn bẩy ở mức vừa phải, 90% các tổ chức chậm trả trái phiếu không tạo ra đủ dòng tiền từ hoạt động kinh doanh để trả lãi định kỳ hoặc thiếu thanh khoản để trả khoản nợ gốc đến hạn. Gần 40% trái phiếu chậm trả có kỳ hạn phát hành rất ngắn từ 1 đến 3 năm, thường được dùng cho các Dự án dài hạn không tạo ra dòng tiền kịp thời. Khi không có dòng tiền thu ổn định, các tổ chức phát hành phải phụ thuộc nhiều vào việc tái cấp vốn, nói cách khác là dùng nợ mới trả nợ cũ. Kết quả là 85% các trường hợp chậm trả xảy ra trong ba năm đầu tiên kể từ khi phát hành.
Ngoài ra, khoảng 40% số trái phiếu chậm trả có tài sản đảm bảo nhưng tài sản khó định giá hoặc khó thanh lý, ví dụ như như các khoản phải thu liên quan đến dự án bất động sản, hợp đồng hợp tác kinh doanh và quyền thu nhập từ Dự án trong tương lai. Việc thiếu cơ chế tái cơ cấu nợ hiệu quả và hạn chế trong việc áp dụng cách tiếp cận bằng pháp lý càng làm tăng tỷ lệ chậm trả.
Chính vì vậy, dù coi đòn bẩy là một trong những rủi ro cần tính tới, song chuyên gia VIS Rating khuyến nghị nhà đầu tư nên xem xét nhiều yếu tố - đặc biệt là khả năng tạo dòng tiền - hơn là chỉ nhìn vào đòn bẩy tài chính khi mua trái phiếu doanh nghiệp.
Quốc hội chính thức luật hóa Nghị quyết 42, “chốt” quyền thu giữ tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng
Với 435/443 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội sáng 27/6 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD). Theo đó, TCTD được quyền thu giữ tài sản đảm bảo (TSĐB) song TSĐB được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ.
![]() |
Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD trước giờ bấm nút, Thống đốc NHNN cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc phân cấp thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản vay không có TSBĐ từ Thủ tướng Chính phủ sang ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và cơ chế điều hành chính sách tiền tệ.
Về nội dung này, Chính phủ đã đề xuất điều chỉnh lời văn của dự thảo Luật nhằm đảm bảo việc cho vay đặc biệt của NHNN chỉ được thực hiện khi TCTD rơi vào tình trạng rất khó khăn về thanh khoản hoặc để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD.
Cụ thể, dự thảo Luật quy định: "Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm đối với tổ chức tín dụng trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Luật này. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm".
Chính phủ sẽ có hướng dẫn chi tiết về điều kiện tài sản bảo đảm được thu giữ của tổ chức tín dụng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng vừa được thông qua sáng nay chính thức luật hóa quyền thu giữ TSĐB của tổ chức tín dụng.
Trước đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu rà soát kỹ lưỡng các quy định liên quan đến điều kiện để có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu; làm rõ vai trò, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu giữ TSBĐ và các bên có liên quan. Đồng thời, đề nghị Chính phủ tiếp tục kế thừa 02 quy định trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.
Báo cáo, giải trình của Chính phủ cho biết, dự thảo Luật chỉ quy định sự tham gia của Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã trong quá trình thu giữ TSBĐ. Do vậy, về cơ bản đã phù hợp với định hướng về sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Chính phủ tiếp thu việc kế thừa 2 quy định trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 và chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung tại điểm d khoản 2 Điều 198a điều kiện “tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền”; đồng thời, bổ sung tại điểm c khoản 3 Điều 198a hình thức công khai thông tin “niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm” trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản. Tuy nhiên, đối với tài sản bảo đảm là động sản, do tính “động”, dễ di chuyển của tài sản là động sản, Chính phủ xin được giữ nguyên về hình thức công khai thông tin theo dự thảo Luật đã trình Ủy ban Thường Quốc hội cho ý kiến.
Ngoài ra, để đảm bảo thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện một cách chặt chẽ để vừa tháo gỡ vướng mắc, vừa giảm thiểu các ảnh hưởng có thể phát sinh, Chính phủ đề xuất chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung quy định “tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ".
Chính phủ cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ phối hợp với các cơ quan, Bộ, ngành có liên quan (Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao,...) để nghiên cứu điều kiện của tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà TCTD được quyền thu giữ nhằm cụ thể hóa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Dự thảo Luật cũng quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải thực hiện thủ tục công khai thông tin quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 198a, phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm, bao gồm cả quy định khi thực hiện việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Hoàn trả tài sản đảm bảo là vật chứng trong các vụ án hình sự để ngân hàng xử lý
Đối với TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong vụ việc vi phạm hành chính, Chính phủ đã tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chỉnh lý Điều 198c dự thảo Luật theo hướng quy định việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự theo đề nghị của bên nhận bảo đảm nếu hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Chính phủ xin được tiếp thu và bỏ nội dung liên quan đến hoàn trả tang vật, phương tiện hành chính trong vụ việc vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD để quy định tập trung tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Về hiệu lực thi hành của Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành phương án của Chính phủ về việc bỏ quy định chuyển tiếp đổi với khoản vay đặc biệt được NHNN quyết định trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và quy định thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật từ ngày 1/8/2025.
Tuy vậy, để có đủ thời gian nghiên cứu, xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định về điều kiện của tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và đảm bảo việc triển khai thi hành Luật, Chính phủ đề xuất thời gian có hiệu lực của dự thảo Luật là từ ngày 15/10/2025.
Mất 20-25 năm thu nhập mới mua được nhà, người trẻ khát gói tín dụng ưu đãi dài hạn
Để mua được một căn hộ 70m2, giá bán 3-4 tỷ đồng tại các đô thị lớn, người trẻ phải cần tới 20-25 năm thu nhập. Con số này cho thấy tỷ lệ giá nhà/thu nhập ở Việt Nam thuộc nhóm rất cao, tức rất khó tiếp cận.
Phát biểu tại Hội thảo “Đòn bẩy tài chính hiệu quả - Cơ hội an cư cho người trẻ” sáng 26/6, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (ngân hàng Nhà nước Việt Nam) cho hay, ngành ngân hàng đang thực hiện nhiều giải pháp để ưu tiên nguồn vốn tín dụng và thực hiện đồng bộ các giải pháp giúp người trẻ có nhà ở.
“Dòng vốn tín dụng được hướng vào phân khúc nhà ở giá rẻ”, bà Giang cho biết.
![]() |
Với gói tín dụng nhà ở xã hội 145.000 tỷ đồng với 9 ngân hàng tham gia, bà Giang cho biết hiện lãi suất cho vay đang 5,9%/năm, thấp hơn 1,5-2% so với lãi vay thông thường. Với người trẻ dưới 35 tuổi, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) triển khai chính sách lãi suất ưu đãi, 5 năm đầu thấp hơn 2%, 10 năm thấp hơn 1% so với lãi suất bình quân trung dài hạn của nhóm ngân hàng lớn.
Dù kết quả tích cực hơn trước song lượng vốn giải ngân các chương trình trên chưa nhiều. Theo NHNN, nguyên nhân là thị trường có ít Dự án có mức giá phù hợp với khả năng chi trả của các đối tượng này.
Ông Hà Quang Hưng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) cho hay, các khảo sát thị trường bất động sản gần đây cho thấy, người trẻ (khoảng 22-40 tuổi) đang trở thành nhóm khách hàng chủ lực trên thị trường nhà ở, thay thế dần nhóm trung niên.
“Nhu cầu sở hữu nhà của người trẻ tại Việt Nam đang ở mức cao chưa từng có, cả về số lượng lẫn tỷ trọng trong cơ cấu người mua nhà. Tuy nhiên, mức tăng thu nhập của người dân chưa theo kịp đà tăng của giá nhà ở, dẫn đến khả năng sở hữu thực tế của đa số người trẻ còn rất hạn chế. Để mua được một căn nhà trung bình (70m2, giá bán 3-4 tỷ đồng) tại các đô thị lớn, người trẻ phải cần tới 20-25 năm thu nhập. Con số này cho thấy tỷ lệ giá nhà/thu nhập ở Việt Nam thuộc nhóm rất cao (rất khó tiếp cận)”, ông Hưng cho biết.
Thực tế cho thấy, phần lớn cặp vợ chồng trẻ ở đô thị có thu nhập trung bình 20-30 triệu đồng/tháng đều phải thuê nhà hoặc sống cùng gia đình, rất ít người đủ tích lũy mua nhà thương mại khi chạm ngưỡng 30 tuổi nếu không có sự hỗ trợ tài chính từ gia đình hoặc các chương trình tín dụng ưu đãi.
Phân tích những rào cản, ông Hưng cho biết, nguồn cung bất động sản còn hạn chế và giá tăng cao so với khả năng chi trả của đại đa số người dân, trong đó có cả người trẻ.
Theo đại diện Bộ Xây dựng, người trẻ khó có nhà ở do rào cản về tài chính cá nhân, cũng như rào cản tín dụng. Tuy ngân hàng sẵn sàng cho vay mua nhà, nhưng lãi suất cho vay thương mại hiện vẫn khá cao, thời hạn vay chưa đủ dài so với nhu cầu. Chỉ khi có các gói ưu đãi lãi suất thấp (5-6%) cố định thời gian dài (20-30 năm) thì người trẻ mới mạnh dạn tính chuyện vay mua nhà.
Để tháo gỡ bài toán cung - cầu hiện nay, ông Hà Quang Hưng cho rằng, giải pháp đầu tiên là phải tăng nguồn cung nhà ở. Muốn vậy, cần soát hoàn thiện thể chế, pháp luật liên quan đến nhà ở và thị trường bất động sản, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi.
Bên cạnh đó, cần triển khai hiệu quả Nghị định số 75/2025/NĐ-CP là nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Với nhà ở xã hội, ông Hưng lưu ý, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 201/2025/QH15 thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội, có hiệu lực từ 1/6/2025, điều chỉnh chính sách theo hướng linh hoạt, dễ tiếp cận hơn.
Theo ông, các địa phương cần thực hiện, hoàn thành các chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội theo Quyết định số 444/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 của Thủ tướng và phát triển nhà lưu trú công nhân trong khu công nghiệp, nhà ở cho lực lượng vũ trang.
Một giải pháp quan trọng nữa mà ông Hưng nhấn mạnh là phát triển các mô hình thuê dài hạn, thuê mua.
Về tài chính, ông Hà Quang Hưng cho rằng, nên nâng mức giảm trừ gia cảnh tính thuế thu nhập cá nhân, cho phép khấu trừ một phần lãi vay mua nhà lần đầu khỏi thu nhập chịu thuế… để kích thích người trẻ mua nhà.
Cạnh đó, nghiên cứu mô hình quỹ tiết kiệm nhà ở, cho phép người lao động trích một phần lương hàng tháng vào quỹ để được vay mua nhà với lãi suất ưu đãi, hoặc thưởng tiền vào tài khoản tiết kiệm nhà ở cho những người trẻ tích lũy đạt mốc nhất định.
Cuối cùng, cần cải thiện tiếp cận tín dụng, triển khai gói vay ưu đãi dài hạn. Cần bố trí đủ và đúng hạn nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân sách Trung ương cấp cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay ưu đãi mua, thuê mua nhà ở xã hội; đẩy mạnh giải ngân chương trình tín dụng 145.000 tỷ đồng, xem xét kéo dài thời hạn cho vay và thời gian vay ưu đãi.
Khắc phục những bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2%
Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang xây dựng nghị định hướng dẫn để triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2%.
NHNN phải có kế hoạch triển khai hiệu quả chính sách
Nghị quyết 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân nêu rõ, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm khi vay vốn để thực hiện các Dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).
Các doanh nghiệp đang chờ hướng dẫn cụ thể để tiếp cận nguồn vốn ưu đãi này. “Dù Nghị quyết đã được ban hành, nhưng doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận vốn ưu đãi. Mong NHNN sớm ban hành hướng dẫn cụ thể, chi tiết để các ngân hàng thương mại triển khai”, ông Đinh Hồng Kỳ, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) kiến nghị.
Đại biểu Quốc hội Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu) cho rằng, việc hướng dẫn triển khai chính sách ưu đãi, hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, nếu không sẽ rơi vào “vết xe đổ” của việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% trước đây (gói hỗ trợ lãi suất phục hồi kinh tế theo Nghị quyết 43/2022/QH15).
Trong phiên chất vấn tuần qua, Bộ trưởng Bộ tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, Bộ Tài chính đã rút kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ lãi suất 2%. Chính phủ đã có Nghị quyết 139/NQ-CP ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15. Theo đó, việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất này sẽ được thực hiện từ các quỹ tài chính và hệ thống ngân hàng.
“Bộ Tài chính sẽ phối hợp với NHNN xây dựng nghị định khắc phục bất cập trong chính sách hỗ trợ lãi suất 2% trước đây, bảo đảm tính khả thi trong thực hiện. Chính phủ sẽ bố trí nguồn lực đúng và đủ để thực hiện chính sách này”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng khẳng định.
Được biết, Nghị quyết 139/NQ-CP của Chính phủ đã giao NHNN trình Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn chính sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG; hoàn thành trong năm 2025.
![]() |
Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, nguồn lực triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khi vay vốn để thực hiện dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG theo yêu cầu Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là từ ngân sách. Bộ Tài chính đang xây dựng kênh cho vay từ các quỹ.
Trường hợp vay từ ngân hàng thương mại, NHNN sẽ phối hợp với Bộ Tài chính có hướng dẫn rõ ràng để khắc phục các bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2% trong chương trình phục hồi nền kinh tế trước dây.
“NHNN đã có văn bản gửi Bộ Tài chính để cân nhắc lồng ghép vào chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng theo đối tượng của Nghị quyết 68-NQ/TW. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để thực hiện các chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, của Quốc hội”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị Thống đốc NHNN, ngay sau kỳ họp Quốc hội (dự kiến kết thúc cuối tháng 6/2025), phải có kế hoạch, giải pháp hiệu quả về chính sách hỗ trợ 2% theo tinh thần Nghị quyết 198/2025/QH15.
Các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp triển khai dự án xanh, kinh tế tuần hoàn cần minh bạch, rõ ràng về đối tượng, tiêu chí; đơn giản về thủ tục để doanh nghiệp và ngân hàng dễ dàng triển khai, tránh cơ chế xin - cho.
Bố trí đủ nguồn lực ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngoài hỗ trợ lãi suất 2%, theo tinh thần Nghị quyết 198/2025/QH15, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo… sẽ được tiếp cận vốn ưu đãi từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bộ Tài chính cho biết, đang khẩn trương xây dựng văn bản hướng dẫn và sẽ bố trí nguồn lực cho Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để Quỹ cho vay mới với lãi suất ưu đãi.
Ngoài ra, Chính phủ khuyến khích các ngân hàng thương mại tăng cường cho vay ưu đãi với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Được biết, Nghị 139/NQ-CP của Chính phủ đã giao Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn chính sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG; hoàn thành trong năm 2025. Đồng thời, rà soát nghị định hiện hành về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tăng cường hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của Quỹ.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội cho rằng, bên cạnh tăng cường vai trò của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần hoàn thiện mô hình các Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả Trung ương và địa phương. Chỉ khi Quỹ tham gia bảo lãnh, ngân hàng mới mạnh dạn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay.
VCCI kiến nghị bỏ giấy phép xuất nhập khẩu vàng
VCCI kiến nghị bỏ giấy phép xuất nhập khẩu vàng và giấy phép xuất nhập vàng từng lần vì sẽ tạo ra nhiều “giấy phép con”, làm gia tăng thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.
![]() |
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có công văn gửi ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
Gỡ bỏ bớt điều kiện kinh doanh với doanh nghiệp sản xuất vàng miếng, vàng trang sức
Theo đó, đối với điều kiện cấp phép sản xuất vàng miếng, Dự thảo quy định điều kiện vốn điều lệ tối thiểu 1.000 tỷ đồng trở lên với doanh nghiệp. VCCI dẫn phản ánh của doanh nghiệp, cho rằng quy định này là quá chặt, là rào cản quá lớn, sẽ loại bỏ phần lớn doanh nghiệp khỏi khả năng tham gia thị trường. Việc này có thể dẫn đến tình trạng chỉ có một số ít doanh nghiệp có thể tham gia thị trường, làm hạn chế tính cạnh tranh, không đa dạng hóa được nguồn cung, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi và sự lựa chọn của người dân.
Đối với kinh doanh vàng trang sức, thủ công mỹ nghệ, dự thảo Nghị định hiện nay vẫn tiếp tục duy trì các điều kiện kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh vàng trang sức, thủ công mỹ nghệ.
Theo VCCI, việc duy trì điều kiện kinh doanh này là chưa phù hợp.
Thứ nhất, không phù hợp với quy định của Luật Đầu tư. Luật Đầu tư quy định chỉ những ngành nghề có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội hoặc sức khỏe cộng đồng mới bị áp đặt điều kiện kinh doanh. Trong khi đó, vàng trang sức, thủ công mỹ nghệ là loại hàng hóa tiêu dùng thông thường, không ảnh hưởng đến các lợi ích công cộng ở mức độ cần thiết để áp dụng hạn chế.
Thứ hai, không có yêu cầu đặc biệt về an toàn hay quản lý. Cụ thể, các điều kiện kinh doanh hiện hành đối với vàng trang sức, thủ công mỹ nghệ chủ yếu liên quan đến cơ sở vật chất, trang thiết bị – tương tự như các loại hình kinh doanh hàng hóa thông thường khác. Các yêu cầu này không gắn với mục tiêu bảo vệ lợi ích công cộng hoặc ngăn ngừa rủi ro đặc thù, do đó không đủ căn cứ để duy trì là ngành nghề có điều kiện.
Thứ ba, chưa phù hợp với chủ trương cải cách hành chính. Việc tiếp tục quy định điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này đi ngược lại tinh thần của Nghị quyết số 68/NQ-TW về cải cách thủ tục hành chính, yêu cầu giảm thiểu sự can thiệp hành chính, loại bỏ rào cản và cơ chế “xin - cho” trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Đồng thời, quy định này cũng chưa thực sự phù hợp, bổ trợ cho định hướng “Khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức trong nước để từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế tác, xuất khẩu vàng trang sức chất lượng cao” mà Tổng Bí thư đã kết luận tại cuộc họp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương ngày 28/5/2025.
Vì vậy, VCCI đề nghị NHNN bỏ quy định về điều kiện kinh doanh với vàng trang sức.
Bỏ bớt “giấy phép con” với nhập khẩu vàng
Riêng với nhập khẩu vàng miếng, theo VCCI, dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định 24 quy định hoạt động nhập khẩu vàng miếng theo hướng kiểm soát nhiều tầng nấc, bao gồm: Giấy phép xuất nhập khẩu vàng; Hạn mức xuất nhập khẩu hàng năm; Giấy phép xuất nhập khẩu cho từng lần;
Việc đồng thời yêu cầu các loại giấy phép nói trên sẽ tạo ra nhiều “giấy phép con”, làm gia tăng thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng đơn giản hoá thủ tục đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu quản lý.
Cụ thể, VCCI kiến nghị bỏ giấy phép xuất nhập khẩu vàng. Nguyên nhân là giấy phép nhập khẩu vàng chỉ cấp cho các doanh nghiệp sản xuất vàng. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất vàng đã do Ngân hàng Nhà nước cấp phép, quản lý chặt chẽ. Do đó, việc yêu cầu thêm một giấy phép xuất nhập khẩu riêng là không cần thiết, mang tính chất “giấy phép lồng trong giấy phép”, làm tăng thêm thủ tục, chi phí không cần thiết.
VCCI cũng kiến nghị bỏ giấy phép xuất nhập khẩu cho từng lần vì NHNN đã khống chế hạn mức cả năm cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh thị trường vàng có nhiều biến động và chịu tác động mạnh từ yếu tố trong và ngoài nước, việc chờ cấp phép từng lần có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, giảm tính linh hoạt trong vận hành.
Quy định về cấp phép từng lần có thể suy đoán nhằm giúp cơ quan quản lý có thông tin về hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, chủ động trong việc điều hành. Việc này có thể thực hiện thông qua việc yêu cầu cơ quan hải quan liên thông dữ liệu với Ngân hàng Nhà nước, hoặc yêu cầu doanh nghiệp báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu. Những biện pháp này vừa đảm bảo hiệu quả giám sát, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh.
Đối với loại vàng nhập khẩu, dự thảo quy định doanh nghiệp chỉ được nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu của nhà sản xuất được chứng nhận bởi Hiệp hội Thị trường vàng London. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ lý do của quy định này.
Làm rõ nội dung về vàng phái sinh, kinh doanh vàng tài khoản
Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có đề cập đến các hoạt động kinh doanh vàng khác. Theo VCCI, một số quy định về nội dung này chưa rõ ràng, cụ thể.
Về điều kiện đầu tư, dự thảo quy định hoạt động kinh doanh vàng khác thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh. Tuy nhiên, căn cứ này đã không còn phù hợp. Danh mục này trước đây được quy định tại Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn, nhưng thực tế đã không còn được áp dụng trong nhiều năm và chính thức bị bãi bỏ tại Nghị định 173/2024/NĐ-CP. Theo Luật Đầu tư 2020, chỉ còn ba loại hình danh mục: ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh; ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; và ngành nghề được tự do đầu tư kinh doanh.
Dự thảo quy định hoạt động này chỉ được thực hiện khi có: (i) quyết định cho phép của Thủ tướng Chính phủ; và (ii) giấy phép của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, Dự thảo cũng như Nghị định 24/2012/NĐ-CP đều không quy định về điều kiện để cho phép, cấp phép cũng như trình tự, thủ tục. Quy định như vậy là không phù hợp với Điều 7.5 Luật Đầu tư 2020 về các nội dung bắt buộc phải có của quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Vì vậy, VCCI đề nghị NHNN bổ sung các quy định về điều kiện; trình tự, thủ tục cấp phép với hoạt động này.
Về hoạt động phái sinh vàng, dự thảo quy định hoạt động phái sinh về vàng là một trong các hoạt động kinh doanh vàng, thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Tuy nhiên, Dự thảo và Nghị định 24/2012/NĐ-CP không quy định về cơ chế, điều kiện cho hoạt động kinh doanh này. Nghị định chỉ quy định cơ chế pháp lý cho hoạt động phái sinh vàng của tổ chức tín dụng, theo đó thực hiện theo Luật Các tổ chức tín dụng. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ: các tổ chức, doanh nghiệp khác (như các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các tổ chức tài chính…) có thể tham gia hoạt động phái sinh về vàng hay không? Trong trường hợp đó, điều kiện, thủ tục cấp phép như thế nào?
Tương tự, với hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản, VCCI cũng đề nghị NHNN làm rõ vì dự thảo nghị định sửa đổi cũng không nêu rõ tổ chức, doanh nghiệp nào có thể cung cấp dịch vụ này? Đối tượng nhà đầu tư nào có thể tham gia? Điều kiện, trình tự, thủ tục như thế nào? Các quy định về giao dịch, khớp lệnh, thanh toán được thực hiện như thế nào?
Tỷ giá vẫn chịu áp lực kép
Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục giữ nguyên lãi suất điều hành và rủi ro liên quan đến thuế đối ứng tiếp tục là những thách thức đối với tỷ giá, dẫn đến nhịp tăng mạnh từ đầu quý II/2025.
Không ngoài dự đoán của giới chuyên gia, Fed quyết định giữ nguyên lãi suất tham chiếu trong phiên họp tháng 6 tuần trước. Trong thông báo sau cuộc họp, Fed nhận xét, thị trường lao động vẫn vững vàng và tỷ lệ thất nghiệp duy trì mức thấp. Lạm phát 3 tháng qua đã hạ nhiệt, nhưng Chủ tịch Fed Jerome Powell nhấn mạnh, điều này chỉ phản ánh quá khứ, đồng thời cảnh báo lạm phát lên 3% cuối năm nay.
Theo biểu đồ chấm của Fed, các thành viên Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) vẫn kỳ vọng nhiều vào khả năng giảm lãi suất tổng cộng 0,5 điểm phần trăm trong năm 2025, nhưng đa số cho rằng, lãi suất điều hành đến năm 2027 chỉ giảm thêm 0,5 điểm phần trăm. Giới đầu tư cũng đang đặt cược quá bán vào khả năng Fed giảm lãi suất thêm 25 điểm cơ bản trong cuộc họp tháng 9.
Dù không đề cập cuộc xung đột giữa Israel và Iran trong tuyên bố chính sách, song Chủ tịch Fed cho biết, vẫn đang theo dõi tình hình. Các đợt tăng giá năng lượng do xung đột thường chỉ mang tính tạm thời, không tác động lâu dài đến lạm phát, nhưng Fed có thể sẵn sàng phản ứng kịp thời với các thông tin mới.
Tương tự, ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng giữ nguyên mức lãi suất 4,25% trong bối cảnh lạm phát tại nước này vẫn ở mức cao và các rủi ro bên ngoài gia tăng do căng thẳng thương mại toàn cầu và xung đột tại khu vực Trung Đông.
Trước đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã cắt giảm lãi suất lần thứ tám kể từ tháng 6/2024, đưa lãi suất tiền gửi xuống 2%. Tuy nhiên, trong thông điệp mới đây, Chủ tịch ECB Lagarde cho biết, ECB đang tiến gần đến cuối chu kỳ, chỉ báo cho thấy có thể sẽ tạm dừng sau các đợt cắt giảm liên tục thời gian qua.
Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ cắt giảm lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản, đưa lãi suất lần đầu tiên về mức 0% kể từ khi áp dụng lãi suất âm vào cuối năm 2022. Lạm phát giảm và triển vọng kinh tế toàn cầu u ám là những lý do được đưa ra. Chỉ số giá tiêu dùng tại Thụy Sĩ lần đầu tiên giảm trong 4 năm, do giá du lịch và giá dầu giảm. GDP của Thụy Sĩ tăng trưởng mạnh trong quý đầu năm 2025, một phần nhờ hoạt động xuất khẩu sớm sang Mỹ trước khi áp dụng thuế quan mới, nhưng dự kiến chậm lại trong các quý tới.
Tiếp tục phản ứng mạnh ngay sau quyết định giữ nguyên lãi suất của Fed, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đưa ra loạt công kích mạnh tới Chủ tịch Fed thông qua các bài đăng trên mạng xã hội Truth Social, với lời kêu gọi giảm lãi suất ngay lập tức và cáo buộc Chủ tịch Powell gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD cho nền kinh tế Mỹ bởi quyết định không giảm lãi suất.
Trong khi đó, rủi ro lãi suất Mỹ neo cao cùng ẩn số kết quả của các cuộc đàm phán thuế quan cũng gây áp lực đến tỷ giá tại các nước đang phát triển. Tỷ giá VND/USD mua vào tại các ngân hàng thương mại đến cuối tuần trước đã tiến sát mức 26.000 VND/USD.
Tại Vietcombank, USD được giao dịch ở mức 25.922 VND/USD (mua vào chuyển khoản) và 26.282 VND/USD (bán ra). Tỷ giá bán ra đã cao kịch biên độ trong cả tuần trước. Tính từ đầu quý II tới nay, tỷ giá tại Vietcombank đã tăng 2,1%, “đóng góp” đáng kể vào mức tăng tổng cộng 2,86% so với thời điểm cuối năm 2024. Tỷ giá trung tâm cũng ghi nhận mức tăng tương ứng.
Theo chuyên gia phân tích từ MBS, USD được kỳ vọng sẽ duy trì sức mạnh trong năm nay nhờ chính sách bảo hộ thương mại ở mức cao và mặt bằng lãi suất cao của Mỹ khi Fed được dự báo sẽ chỉ cắt giảm lãi suất 2 lần.
Cùng với đó, trong trường hợp thuế đối ứng được giữ ở mức cao, sẽ là thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam, nguồn cung ngoại tệ bị siết chặt và tạo thêm áp lực lên tỷ giá. Trường hợp 2 bên đàm phán thành công để giảm mức thuế, sẽ đóng góp đáng kể vào việc ổn định tỷ giá, lãi suất, củng cố các hoạt động mũi nhọn của nền kinh tế như xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.
Nội dung đàm phán thời gian tới sẽ là ẩn số lớn tác động đến các yếu tố vĩ mô, bao gồm tỷ giá. Khi chỉ còn chưa đến 20 ngày nữa là thời gian 90 ngày Mỹ tạm hoãn áp dụng thuế sẽ kết thúc, việc gia hạn thời gian đàm phán thuế quan sau hạn chót 8/7 đang được nhắc đến.
Theo dự đoán của nhóm chuyên gia kinh tế của Goldman Sachs, Mỹ sẽ gia hạn thời gian đàm phán thuế quan với các nước, thay vì bám sát hạn chót ban đầu. Trước đó, Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ Scott Bessent đề cập khả năng dành thêm thời gian cho các cuộc đàm phán thương mại và lùi hạn chót với những quốc gia có thiện chí.
Trong bối cảnh áp lực gia tăng từ bên ngoài, Ngân hàng Nhà nước vẫn đang có những biện pháp điều hành linh hoạt. Trong tháng 5, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì hút ròng hơn 21.400 tỷ đồng. Theo chuyên gia phân tích từ FiinRatings, việc linh hoạt điều chỉnh tỷ giá trung tâm cho phép thị trường có thêm dư địa tự điều tiết.
Nghị quyết 68: Ngân hàng thương mại tiếp sức kinh tế tư nhân "cất cánh"
Vốn tín dụng được coi là "mạch máu" đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, trong đó các ngân hàng thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng trong cung ứng, điều hòa, bảo đảm cho quy trình tuần hoàn, vận hành trơn tru của hệ thống huyết mạch này.
Để kinh tế tư nhân thực sự "cất cánh", phát huy vai trò "là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia", Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cũng như các Nghị quyết, chỉ đạo liên quan đã đưa ra các quan điểm, mục tiêu, lộ trình, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, rõ ràng. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được đề ra là phải đa dạng hóa nguồn vốn; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về vốn…
Chia sẻ tại tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức sáng 27/6, ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (ngân hàng Nhà nước, NHNN) khẳng định, Nghị quyết 68 đã tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn, bản chất là đa dạng các nguồn vốn, không chỉ nguồn vốn của ngành ngân hàng mà còn các nguồn vốn khác.
Ngay sau khi Nghị quyết 68 ra đời, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành kế hoạch triển khai hành động số 2415 và 2416 để triển khai Nghị quyết 68 cũng như cụ thể hóa Nghị quyết 138, 139 của Thủ tướng Chính phủ.
Kế hoạch hành động này đã cụ thể hóa tất cả các chương trình hành động, cụ thể tới tất cả các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước cũng như là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng để triển khai các giải pháp đồng hành cùng với các doanh nghiệp, để làm thế nào cụ thể hóa Nghị quyết 68 cũng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tới người dân, doanh nghiệp, các ngân hàng, làm thế nào tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp tư nhân có thể tiếp cận nguồn vốn, đồng thành cùng các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình phát triển.
Đến ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024, tăng 18,71% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024, dư nợ tín dụng tăng +3,87% so với tháng 12/2023).
Thống kê của NHNN cho thấy, có đến 100 tổ chức tín dụng đã phát sinh tỷ lệ dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Trong đó có khoảng 209.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa đều có phát sinh dư nợ tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Điều đấy khẳng định dòng vốn tín dụng đã lan tỏa đến mọi phân khúc của các doanh nghiệp, mọi phân khúc của nền kinh tế.
“Con số này không chỉ phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân mà còn phản ánh nỗ lực, cố gắng của ngành ngân hàng dành cho khu vực kinh tế tư nhân”, ông Lân nói.
Từ góc độ đại diện ngân hàng thương mại, bà Nguyễn Bảo Thanh Vân, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) cho biết, ngay khi tiếp cận Nghị quyết 68, VietinBank đã đón nhận chủ trương này với tinh thần tích cực và kỳ vọng lớn. “Đây không chỉ là một giải pháp tình thế, mà còn là một chính sách có tầm nhìn dài hạn nhằm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội”, bà Vân nói.
Theo bà Vân, các giải pháp hỗ trợ được đề ra trong Nghị quyết đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo hướng tích cực hơn, từ đó làm gia tăng nhu cầu tín dụng một cách "lành mạnh". Khi doanh nghiệp khỏe, có nền tảng tài chính tốt và hoạt động ổn định, thì các tổ chức tín dụng cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc cung ứng vốn - vừa an toàn, vừa hiệu quả.
VietinBank đã xây dựng các gói tín dụng chuyên biệt cho doanh nghiệp tư nhân và các đối tượng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), với lãi suất ưu đãi từ 5%/năm - thấp hơn cả mặt bằng lãi suất tiền gửi 12 tháng (hiện ở mức 5,2 - 5,3%). Các gói vay được thiết kế riêng cho từng ngành nghề, mục tiêu kinh doanh để bảo đảm phù hợp và hiệu quả cao nhất.
Ngoài việc hỗ trợ giải pháp về tài chính, VietinBank còn cung cấp cho khách hàng các giải pháp phi tài chính, tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp. Bà Vân cho biết, các hộ kinh doanh nhỏ lẻ là nhóm khách hàng vốn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng và chưa quen với các quy định về thuế, kế toán hay minh bạch tài chính đã được VietinBank hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính, cải thiện báo cáo tài chính để tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, chất lượng hơn.
Theo các chuyên gia tại tọa đàm, việc tăng cường nguồn lực cho khu vực kinh tế tư nhân, trong đó có nguồn lực về vốn không phải là sự trải đều và rộng khắp mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có sự lựa chọn.
TS. Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký Liên đoàn Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, nguồn vốn là hữu hạn, nên phải hướng vốn vào những hoạt động tạo ra lợi thế, cạnh tranh nhất và hiệu ứng đối với xã hội tốt nhất.
“Tôi cho rằng nguồn vốn nên được khơi thông và thúc đẩy, khuyến khích chảy vào khu vực sản xuất, nơi tạo ra hàng hoá, dịch vụ cụ thể, nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động, nơi giúp giải quyết nhiều vấn đề về an sinh xã hội. Cho nên những ngành hàng chúng ta đang có thế mạnh, ví dụ như trong nông nghiệp, thì không chỉ là những doanh nghiệp mà là nhiều bà con nông dân”, ông Tuấn đề xuất.
Cũng theo ông Tuấn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện vẫn khó tiếp cận vốn tín dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ - khu vực chiếm tới 97 - 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam. “Nhóm doanh nghiệp này hầu như rất khó tiếp cận được với hệ thống ngân hàng chính thức. Họ thường phải vay từ các nguồn phi chính thức như người thân, bạn bè, thậm chí từ tín dụng đen, tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cả về tài chính lẫn pháp lý”, ông Tuấn nêu thực trạng.
Đề cập đến các công cụ hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng…, ông Tuấn đánh giá, Nghị quyết 68 đã đề ra nhiều giải pháp nhằm vận hành các quỹ hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng theo hướng hiệu quả và tiệm cận cơ chế thị trường hơn. Ông Tuấn đề nghị, thay vì hoạt động như một thiết chế hành chính như trước, các quỹ cần được tổ chức theo hướng linh hoạt hơn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro có kiểm soát để hỗ trợ đúng đối tượng, đúng mục tiêu.
Song, bên cạnh việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, ông Nguyễn Phi Lân lưu ý vấn đề tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Trong Nghị quyết 138 và 139, Thủ tướng Chính phủ đã giao trách nhiệm cho Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành, bên cạnh vấn đề tạo cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thì phải thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các vấn đề liên quan đến cho vay, để đảm bảo rằng dòng vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng mục tiêu cho vay, tránh trường hợp dòng tiền chảy vào các lĩnh vực rủi ro, gây bất ổn cho nền kinh tế. Thủ tướng cũng giao cho các bộ, ngành, trong đó có Ngân hàng Nhà nước, phải triển khai nội dung này.
“Đây là một trong những giải pháp vừa đảm bảo cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn, vừa đảm bảo an toàn cho chính các doanh nghiệp”, ông Lân khẳng định.
-
Phác thảo bức tranh lợi nhuận ngân hàng
-
Vàng rời xa mốc 3.300 USD/ounce, chờ đợi chuyển động mới trong đàm phán thương mại
-
Quy định về mức hỗ trợ và phương thức hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
-
Siết tỷ lệ đòn bẩy từ 1/7: Không cản trở hoạt động phát hành trái phiếu của doanh nghiệp
-
Luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo; Kiến nghị bỏ giấy phép nhập khẩu vàng -
Khắc phục những bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2% -
Nghị quyết 68: Ngân hàng thương mại tiếp sức kinh tế tư nhân "cất cánh" -
TPBank kiện toàn nhân sự Ban Điều hành, hướng tới phát triển bền vững -
Quốc hội chính thức luật hóa Nghị quyết 42, “chốt” quyền thu giữ tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng -
Tỷ giá USD/VND hạ nhiệt sâu -
Những đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định mới từ ngày 1/7/2025
-
Gỡ “nút thắt” cho ngành môi giới bất động sản, Meey Group tiếp tục được vinh danh tại VARS Awards 2025
-
Uuviet Solutions và Innoci tại Vietbuild 2025: Hành trình tái định nghĩa phong cách sống với phòng tắm chuẩn 5 sao
-
Bệ phóng thành công - Cú hích bứt tốc: Yên Bình K-Town vào Giai đoạn 2 với khí thế “chiến binh”
-
Tôn vinh doanh nghiệp xanh và đổi mới sáng tạo tiêu biểu năm 2025
-
VPBank ghi dấu ấn truyền thông và tăng trưởng kinh doanh mạnh mẽ với VPBank K-Star Spark in Vietnam
-
Nagakawa (NAG): 16 năm đồng hành kiến tạo giá trị cùng HNX