
-
[Longform] Toàn cảnh lễ diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
-
Từ kỷ nguyên độc lập, tự do tới kỷ nguyên mới phú cường và hạnh phúc
-
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam
-
"Với trí tuệ và bản lĩnh kiên cường, dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới"
-
Chủ tịch nước Lương Cường: Đoàn kết với Cuba xuất phát từ trái tim và trong suy nghĩ của mỗi người Việt Nam -
Tổng Bí thư tiếp Chủ tịch Đảng Nhân dân, Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen
![]() |
Không khí Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/8/1945. Ảnh: Tư liệu (TTXVN) |
Đặc điểm nổi bật của Cách mạng tháng Tám
Một trong những đặc điểm nổi bật của Cách mạng tháng Tám là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vô cùng nhạy bén về tình hình chính trị quốc tế, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết lãnh đạo toàn dân giành chính quyền trên toàn quốc chỉ trong 10 ngày. Để có sự nhìn nhận, đánh giá về nghệ thuật tận dụng hiệu quả những yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phân tích những sự kiện quốc tế trước, trong thời gian Tổng khởi nghĩa và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi quân Đức chiếm Paris, Chính phủ Pháp thân phát xít của Pétain đóng đô ở Vichy. Tướng De Gaulle, người đứng đầu Ủy ban Giải phóng nước Pháp tuy phải lưu vong ở Anh, nhưng vẫn giương cờ phục quốc và tuyên bố về quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. Do vậy, ở châu Á và Đông Dương, Nhật bắt đầu gây sức ép cho chính quyền thuộc địa Pháp. Pháp bổ nhiệm Phó đô đốc Decoux làm Toàn quyền Đông Dương nhằm thỏa hiệp với Nhật, nhưng Nhật không quan tâm đến đàm phán, mà chủ động lấn dần từng bước.
Đầu năm 1940, khi tranh chấp Pháp - Nhật nổ ra về quyền sở hữu quần đảo Trường Sa thuộc Pháp, thì mọi động thái ôn hòa đã thay đổi. Nhà ngoại giao Mỹ M. Hamilton nhận xét: “Có thể, sự chiếm đóng này không đặt thành vấn đề lớn như trường hợp Anh sở hữu Hồng Kông hay Pháp sở hữu Đông Dương, nhưng vì cả Pháp và Nhật đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa, thì rõ ràng Đông Dương vốn thuộc Pháp như một khu vực địa lý không thể phủ nhận được sự kiểm soát của Pháp”.
Tổng thống Mỹ Roosevelt cố ngăn chặn sự bành trướng của Nhật bằng cách đề nghị trung lập hóa Đông Dương, nhưng Nhật bác bỏ. Tháng 8/1940, đại diện Chính phủ Pétain của Pháp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật ký kết hiệp ước về việc bảo vệ chủ quyền Pháp ở Đông Dương, nhưng Decoux vẫn không đáp ứng bất kỳ yêu cầu nào của Nhật.
Ngày 22/9/1940, quân Nhật từ miền Nam Trung Quốc tấn công 2 đồn binh ở Đồng Đăng và Lạng Sơn, lực lượng hỗn hợp Pháp - Việt nhanh chóng thất bại. Tháng 7/1941, quân Nhật tiến vào miền Nam Việt Nam và Pháp không có phản kháng nào.
Chính quyền Pháp tại Đông Dương ký với Nhật hiệp định dâng Đông Dương cho Nhật, khiến Mỹ hết sức cay cú và lập tức phản ứng bằng cách ngừng đàm phán với Nhật, cắt đứt quan hệ thương mại và đóng băng tài sản Nhật. Từ đó, trên thực tế, Nhật đã là chủ nhân mới của Đông Dương, nhưng vẫn dùng Pháp cai quản, duy trì trật tự và cư xử với nhau như đồng nghiệp thân thiết.
Lúc đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận định: “Người Nhật trở thành chủ nhân đích thực. Người Pháp trở thành một dạng nô lệ được tôn trọng. Và người dân Đông Dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng - làm nô lệ không chỉ cho người Nhật, mà còn là nô lệ của nô lệ - người Pháp”.


Tất nhiên, Pháp không bao giờ từ bỏ bóc lột theo kiểu biến lỗ thành lãi ở thuộc địa, bằng cách chuyển gánh nặng sưu thuế tài trợ thuộc địa và Chính phủ bảo hộ từ chính quốc sang người Việt Nam. Trong khi ở miền Nam, các ông chủ thống trị đồn điền và bóc lột tận xương tủy phu đồn điền, thì ở miền Bắc, các phu mỏ cũng bị bần cùng hóa.
Sĩ quan tình báo Mỹ A. Glass đã viết báo cáo gửi cấp trên: “Tôi không tin người Pháp hiểu được tâm tính người Việt Nam, bởi đa số họ quá tự cao, tự đại và tham lam để có thể hiểu được nguyện vọng của dân tộc khác. Quyền tự do họ đã tuyên bố cho mình lại bị từ chối đối với dân tộc khác. Họ nói quá nhiều về phẩm giá Pháp, nhưng lại thường xuyên nhẫn tâm chà đạp nhân quyền và phẩm giá những dân tộc bị họ nô dịch. Minh chứng cho điều đó là tình cảnh bán nô lệ của culi đồn điền, việc cưỡng bức nông dân đào kênh mương, mở đường hay tuyển mộ họ vào đội quân bản xứ để lao động khổ sai. Đó là những gì họ đã và đang làm ở Đông Dương gần 100 năm nay”.
Sự cộng tác và thỏa hiệp với Nhật là lựa chọn thực tế duy nhất cho Pháp, nếu còn muốn duy trì lợi ích ở Đông Dương. Thế nhưng, Hội đồng Chiến tranh tối cao Nhật Bản đã đưa ra quan điểm về cách quản lý các vùng lãnh thổ bị chiếm là: “Thứ nhất, giành được các nguồn nguyên liệu thô. Thứ hai, đảm bảo tự do vận chuyển nguyên liệu thô và binh lính”. Việt Nam có nguồn nông sản gạo và cao su có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế chiến tranh của Nhật và nông dân còn bị bắt trồng thêm đay lấy dầu nhờn cho xe cộ, máy móc.
Ngày 29/8/1941, Roosevelt và Churchill ký Hiến chương Đại Tây Dương, đưa ra hy vọng cho những người theo phong trào đòi độc lập trên toàn thế giới, vì Điểm 3, Hiến chương có ghi: “Các bên tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc lựa chọn hình thức chính phủ tương lai của mình và hy vọng chứng kiến các quyền tối thượng và tự quản được khôi phục cho tất cả những ai đã bị tước đoạt các quyền đó bằng vũ lực”.
Trong cuộc nói chuyện với con trai Elliott, chính Roosevelt đã lên án sự cai trị của Pháp: “Người Nhật lúc này kiểm soát thuộc địa đó. Tại sao Nhật lại quá dễ dàng xâm chiếm vùng đất ấy? Người dân Đông Dương đã bị áp bức trắng trợn đến mức họ tự nhủ: bất kỳ cái gì cũng tốt hơn phải sống dưới ách thống trị của Pháp”.
Sau khi Mỹ chính thức tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, Roosevelt đã đưa ra nhiều tuyên bố về kế hoạch ủy trị Đông Dương. Trong một cuộc họp với Hội đồng Chiến tranh tháng 3/1943, Roosevelt đề nghị: “Việc điều hành của Pháp tại Đông Dương mâu thuẫn đáng kể với thông lệ chung của Anh và Mỹ là khuyến khích người bản xứ tham gia chế độ tự quản”.
Cho đến cuối năm 1944, Roosevelt tiếp tục chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa và đặc biệt chỉ trích Pháp về tình hình Đông Dương khi gửi thư cho Hull, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, trong đó có đoạn: “Hơn một năm qua, tôi đã bày tỏ quan điểm: Đông Dương không nên trở lại với người Pháp, mà nên được quản lý bởi một cơ quan ủy trị quốc tế. Pháp đã chiếm và bòn rút nước này trong gần 100 năm và lúc này, người dân nghèo khổ hơn giai đoạn đầu. Người dân Đông Dương có quyền hưởng những gì tốt đẹp hơn thế”. Tất nhiên, Pháp kịch liệt phản đối bất kỳ loại hình ủy trị quốc tế nào đối với các thuộc địa của mình, nên Roosevelt không thể triển khai được một chính sách cụ thể để đưa Đông Dương thoát khỏi vòng kiểm soát của Pháp.
Cho đến đầu năm 1945, Roosevelt đành hoãn quyết sách cuối cùng về Đông Dương để đợi tới khi chiến thắng phe phát xít, nhưng ngày 12/4/1945, Roosevelt đột ngột qua đời, quan điểm tự do cho Đông Dương của ông cũng chấm dứt.
*
* *
Ở miền Bắc Việt Nam, sau những trận lũ lụt, cộng thêm diện tích trồng lúa và hoa màu bị giảm đi, thay thế bằng cây đay, bông, lạc, nên bắt đầu có nạn đói từ cuối năm 1944, đến đầu năm 1945 có tới 2 triệu người chết đói. Nhật và Pháp đồng thanh đổ lỗi cho Đồng minh, vì trong thời gian này, máy bay Đồng minh liên tục ném bom vào tuyến đường sắt Bắc - Nam và các vị trí đóng quân, căn cứ quân sự của Nhật, nhưng đại bộ phận người Việt quy trách nhiệm cho chính Pháp và Nhật.
Sau khi Đồng minh giải phóng Paris ngày 25/8/1944, Chính phủ kháng chiến De Gaulle tự chuyển thành Chính phủ lâm thời. Cuối năm 1944, De Gaulle thành lập Ủy ban Hành động giải phóng Đông Dương. Sau đó, ở Đông Dương đã xảy ra một loạt sự cố, như phá hoại xe quân sự Nhật, phân biệt đối xử với những công ty thương mại Nhật, áp bức những người Việt thân Nhật…
![]() |
Từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Ảnh: Đức Thanh |
Ngày 26/1/1945, De Gaulle họp Ủy ban Quốc phòng Pháp thông qua kế hoạch tác chiến cho quân Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/2/1945, Hội đồng Chiến tranh tối cao Nhật Bản vạch ra một kế hoạch nhằm độc chiếm quyền lực tại Đông Dương. Đó là cần phải đánh bại hoàn toàn quân đội Pháp, buộc người Pháp phải đầu hàng và cương quyết đập tan bất kỳ thái độ hiếu chiến nào.
Một chiến dịch đảo chính Pháp tại Đông Dương mang mật danh MEIGO ra đời. Ngày 9/3/1945, MEIGO diễn ra bí mật và bất ngờ. Lúc 18 giờ, đại sứ Nhật Bản Matsumoto gặp Toàn quyền Decoux tại Sài Gòn để ép ký thỏa thuận cung cấp gạo cho quân Nhật. Đúng 19 giờ, Matsumoto trao cho Decoux yêu cầu của Chính phủ Nhật buộc quân Pháp phải tham gia phòng thủ chung bảo vệ Đông Dương khi Đồng minh tấn công và Pháp chỉ có 2 tiếng để quyết định đặt toàn bộ lực lượng Pháp cùng mọi tài sản và thiết bị quân sự dưới sự kiểm soát của Nhật.
Decoux họp với ban tham mưu để bàn. Tất nhiên, không ai chấp nhận đầu hàng kiểu như vậy, nên Decoux làm văn bản trả lời phía Nhật là cần tham khảo thêm ý kiến của các chỉ huy cấp cao tại Hà Nội, nhưng phía Nhật không cần câu trả lời của Pháp.
Lúc 20 giờ 18 phút, tướng Tsuchihashi chỉ huy đạo quân Thiên Hoàng ở Sài Gòn ra lệnh cho 67.000 binh sĩ Nhật tại Việt Nam hành động. Lúc 21 giờ 21 phút, mật mã 777 phát ra là tín hiệu tiến hành MEIGO trên toàn Đông Dương. Tất cả cơ quan công quyền Pháp, đài phát thanh, trạm điện thoại, ngân hàng, lực lượng cảnh sát, quân đội và thường dân Pháp đều bị tấn công.
Ngày hôm sau, Thủ tướng Nhật Koiso giải thích bằng cách buộc tội chính quyền Pháp phản bội trước Hạ nghị viện Nhật Bản: “Sau khi quân Đức rút khỏi Pháp, tân Chính phủ De Gaulle đã ban hành quyết định chống Nhật. Decoux sau đó đã ra tuyên bố trung thành và nói rõ Đông Dương đang trong tình trạng chiến tranh với chúng ta. Nhật không thể dễ dàng phục tùng một tuyên bố thù địch như vậy. Nhật không còn sự lựa chọn nào khác”. Tuy nhiên, ngay đêm đó, 334 pháo đài bay B29 của Mỹ đã ném 1.700 tấn bom, thuốc nổ xuống Tokyo làm hơn 100.000 dân thường Nhật chết và tàn phế.
Ngày 11/3, đại diện Nhật Bản đến gặp vua Bảo Đại đề nghị cụ thể hóa ngay với toàn dân nền độc lập của Việt Nam. Cùng thời điểm đó, khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra tại Quảng Ngãi, thành lập chính quyền cộng sản kháng Nhật.
Ngày 12/3, Bảo Đại đưa một bản Tuyên cáo độc lập cho người Nhật có nội dung: “Căn cứ trên tình hình thế giới và đặc biệt trên tình hình châu Á. Chính phủ nước Việt Nam tuyên bố công khai rằng, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký kết với nước Pháp bị xóa bỏ và đất nước Việt Nam khôi phục lại quyền độc lập của mình… Hoàn toàn tin tưởng vào sự chân thành của đế quốc Nhật Bản, chính phủ Đông Dương đã quyết định hợp tác với Nhật và nguyện hiến dâng tất cả của cải quốc gia để phấn đấu cho mục đích chung”.
Cái chính thể gọi là độc lập của Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu đã chọn Trần Trọng Kim, một trí thức quốc gia chủ nghĩa làm Thủ tướng và tiếp nhận tất cả những gì thuộc về Pháp từ tay Nhật. Ngày 24/3/1945, Chính phủ De Gaulle ra tuyên bố về chính sách Đông Dương tự trị trong khi quân Pháp bị quân Nhật đuổi đánh khắp nơi, phải chạy dài sang biên giới Trung Quốc. Những người Pháp này bị quân Quốc dân Đảng tước vũ khí và được ở lại trong những khu vực quy định.
*
* *
Đến tháng 5/1945, Nhật hoàn toàn đánh bật Pháp ra khỏi Đông Dương. Lúc này, không đoàn 14 của Mỹ đang đóng quân tại Trung Quốc nhận được lời cầu cứu của tàn quân Pháp, đề nghị ném bom ngăn chặn quân Nhật truy sát binh sĩ và công dân Pháp. Không đoàn 14 đã thực hiện 98 chuyến bay trên bầu trời Đông Dương, bao gồm ném bom, trinh sát và thả dù tiếp tế cho quân Pháp.
Tuy nhiên, địa bàn của người Pháp ngày càng bị thu hẹp. Vì Nhật liên tục chuyển quân vây ép, nên máy bay Mỹ không thể ném bom chính xác. Họ thả dù sai địa chỉ, thậm chí còn ném bom nhầm vào quân Quốc dân Đảng. Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ (OSS) báo cáo về tổng hành dinh: “Khó thu thập được thông tin tình báo từ một khu vực mà mọi liên lạc đều bị cắt đứt, đầy rẫy quân Nhật và chúng ta không biết chính xác về vị trí của chúng. Mọi sự di chuyển rất khó khăn, một người da trắng cũng rất dễ bị nhận diện”. Vì thế, OSS đặt ra kế hoạch QUAIL nhằm thiết lập các trạm chỉ huy tác chiến trên không rải khắp Đông Dương và nhiệm vụ đầu tiên là phải tìm một đối tác Việt Nam đáng tin cậy.
Ngày 13/4/1945, A. Patti, một cựu binh OSS trong các chiến dịch ở Italia được cử từ Washington sang đảm nhận phụ trách phái đoàn OSS tại Đông Dương. Trước đó, cuối năm 1944, một chiếc máy bay của Mỹ bị quân Nhật bắn hỏng trên vùng trời Hòa An (Cao Bằng), trung úy phi công Shaw nhảy dù xuống khu rừng gần tỉnh lỵ được du kích Việt Minh cứu thoát và đưa về gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người đã quyết định đưa viên phi công sang Côn Minh trao trả cho đại diện quân đội Mỹ ở đây, vừa thể hiện thiện chí của Việt Minh, đồng thời cũng muốn khẳng định lực lượng Việt Minh đứng về phe Đồng minh cùng chống phát xít.


Trong tháng 3/1945, sau những cuộc gặp gỡ giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với tướng Chennault, đại diện tập đoàn không quân số 14 của Đồng minh và A. Patti của OSS, mối quan hệ giữa Việt Minh và Đồng minh đã được thiết lập. Một chủ trương về việc Mỹ giúp đỡ vũ khí, phương tiện liên lạc và huấn luyện quân sự cho lực lượng Việt Minh chống phát xít đã được hai bên thỏa thuận. Ngày 16/7/1945, toán quân Đồng minh mang biệt danh Con Nai gồm 5 thành viên đầu tiên đã nhảy dù xuống khu vực Tân Trào.
Đội Con Nai đã giúp trang thiết bị và huấn luyện du kích Việt Minh, tiến hành khảo sát địa hình, thu thập thông tin quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam. Chuỗi sự kiện này đã mặc nhiên công nhận rằng, Việt Minh chính thức là một lực lượng sát cánh cùng Đồng minh chống phát xít. Nhưng trong lúc này, Chính phủ Pháp cũng gấp rút xúc tiến kế hoạch tái chiếm Đông Dương, nên đã tập hợp đạo quân viễn chinh do Leclerc chỉ huy, cử đô đốc D’Argenlieu làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thiết lập hệ thống thông tin nóng từ Paris - Calcutta - Côn Minh - Đông Dương.
Ngày 6/8/1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử Little Boy xuống Hiroshima và ngày 9/8 là quả bom Fat Man xuống Nagasaki. Mặc dù các cơ quan thông tin Nhật cố tình bưng bít sự kiện này, nhưng cuối cùng, dư luận đều biết. Giới chính trị, các đảng phái xã hội Việt Nam lập tức sôi sục.
Khi biết tin Nhật đề nghị Đồng minh ngừng bắn để đàm phán, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị hỏa tốc truyền mệnh lệnh khởi nghĩa tới các địa phương. Ngày 14/8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh.
Thời cơ lịch sử
Ngày 16/8, tại Tuyên Quang, Quốc dân Đại hội Tân Trào được triệu tập và Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) được thành lập. Ngày 19/8, nhân dân Hà Nội giành chính quyền thành công. Đài phát thanh Việt Nam phát đi 3 thông điệp quan trọng, trong đó có bức thư ngỏ của Bảo Đại gửi De Gaulle, có đoạn: “Ngài đã trải qua quá nhiều đau khổ trong 4 năm kinh hoàng, không thể không hiểu rằng dân tộc Việt Nam, đã có 2.000 năm lịch sử và một quá khứ nhiều vinh quang, không muốn, không thể nào chịu đựng nổi bất cứ sự thống trị hoặc bất cứ sự cai trị của một ngoại bang nào nữa… Chúng ta có thể hiểu nhau rất dễ dàng và trở thành những người bạn, nếu ngài chịu gác bỏ ý đồ trở lại làm những ông chủ của chúng tôi…”.
Ngày 22/8, tại Washington, De Gaulle hội đàm với tân Tổng thống Mỹ Truman và ký văn bản công nhận chủ quyền của Pháp trên toàn Đông Dương. Ngày 24/8, De Gaulle ký tiếp một thỏa hiệp với Anh để giúp Pháp khôi phục lại quyền hành ở Đông Dương trên danh nghĩa Đồng minh. Ngày 25/8, Bảo Đại chính thức giao ấn kiếm cho đại diện Việt Minh để thoái vị “làm công dân một nước tự do, còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Đến ngày 28/8/1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi trên toàn quốc. Cùng ngày, Pháp cử phái viên nhảy dù xuống Huế định bí mật gặp Bảo Đại thuyết phục ông này chờ Pháp khôi phục quyền lực, nhưng bị Việt Minh tóm gọn, nên mưu đồ của Pháp thất bại.
Ngày 2/9/1945, tại vịnh Tokyo, trên tàu USS Missouri, trước sự chứng kiến của đại diện Mỹ và Đồng minh, các nhân vật trọng yếu của Đại Nhật Bản đế quốc lần lượt đặt bút ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trang trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào cả nước và toàn thể nhân loại trên thế giới, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đặc trưng nổi bật trong phương pháp lãnh đạo cách mạng
Biết lựa chọn thời cơ cách mạng và nắm chắc, tận dụng thời cơ để đấu tranh giành thắng lợi là đặc trưng nổi bật trong phương pháp lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh.
Theo đó, trước hết là cách phân tích biện chứng, khi nào thời cơ đến để chuẩn bị sẵn sàng thế và lực cho cách mạng, cùng những dự báo khoa học, chính xác của Người về diễn biến tình hình, như: Đồng minh dân chủ sẽ nhất định chiến thắng phát xít; sớm muộn Nhật sẽ hất cẳng Pháp và để khi Pháp thua Nhật, mình đánh lấy lại nước từ tay Nhật mới được; năm 1945, Việt Nam sẽ giành được độc lập; sự khẳng định: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” và quyết tâm: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Chỉ trong vòng 2 tuần, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lực lượng quần chúng hùng hậu và lực lượng vũ trang phối hợp hành động, thích ứng kịp thời với tình hình thế giới liên tục biến động đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đàng hoàng, chủ động đón tiếp quân Đồng minh tới một đất nước có chủ quyền.
Cách mạng tháng Tám là kết tinh của sự chuẩn bị thấu đáo lực lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Từ khi thành lập Báo Thanh niên để truyền bá tư tưởng cách mạng, đến thành lập Đảng và tới ngày Bác về nước, thành lập quân đội, Việt Minh… là sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
Vào thời khắc lịch sử, Bác và Trung ương đã phân tích, nắm bắt đúng thời cơ khi Nhật - Pháp đánh nhau để hành động. Đây là quyết định lịch sử mở ra bước ngoặt vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, là bài học về nắm tình hình, phân tích tình hình, ra quyết định, đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công. Sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á không chỉ là thắng lợi của đường lối cách mạng, sự đúng đắn, sáng tạo linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh thần đoàn kết yêu nước của các tầng lớp nhân dân ta, mà còn chứng minh trí tuệ thiên tài, nghệ thuật phân tích, xử lý, lựa chọn thời cơ chính xác của lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.

-
[Longform] Toàn cảnh lễ diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
-
Từ kỷ nguyên độc lập, tự do tới kỷ nguyên mới phú cường và hạnh phúc
-
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam
-
Từ Điện Biên Phủ đến chiến dịch Hồ Chí Minh: Chiến thắng của bản lĩnh, sức mạnh Việt Nam
-
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ -
Bối cảnh quốc tế và thời cơ lịch sử của Cách mạng Tháng Tám -
"Với trí tuệ và bản lĩnh kiên cường, dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới" -
Chủ tịch nước Lương Cường: Đoàn kết với Cuba xuất phát từ trái tim và trong suy nghĩ của mỗi người Việt Nam -
Tổng Bí thư tiếp Chủ tịch Đảng Nhân dân, Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen -
Cập nhật: Gần 94% xã, phường đã rút kinh phí quà tặng cho công dân -
Trình Chính phủ ban hành Nghị định về xử lý vướng mắc của dự án BOT giao thông
-
Vinamilk tạo điểm nhấn tại Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm
-
Vietnam Airlines thông báo điều chỉnh thời gian đăng ký đặt mua và nộp tiền mua cổ phiếu trong đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng năm 2025
-
Wealthcons được vinh danh “Nơi làm việc tốt nhất châu Á 2025”
-
Vietnam Airlines: Thông báo điều chỉnh thời gian đăng ký đặt mua và nộp tiền mua cổ phiếu trong đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng năm 2025
-
Green i-Park ký kết thỏa thuận hợp tác, mở rộng cơ hội đầu tư từ Hàn Quốc
-
Vietnam Airlines thông báo điều chỉnh thời gian đăng ký đặt mua và nộp tiền mua cổ phiếu trong đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng năm 2025