Thứ Tư, Ngày 08 tháng 10 năm 2025,
Doanh nghiệp dân tộc: Yếu tố then chốt quyết định tự lực, tự cường của dân tộc
Tú Ân - 08/10/2025 14:36
 
Sức mạnh thực sự của đội ngũ doanh nhân dân tộc, của một quốc gia tự lực, tự cường đến từ mục tiêu "xây tổ khổng tước": Quy tụ nhân tài, kiến tạo sức mạnh trí tuệ

Ngày 8/10, tại Hội thảo "Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng" do Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES) tổ chức, các chuyên gia đã chia sẻ, làm rõ, khẳng định vai trò của "doanh nghiệp dân tộc" trong  trong sự nghiệp phát triển đất nước.

TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, để kiến tạo quốc gia hùng cường, cần phải có những doanh nghiệp hùng cường. Với diễn biến thực tế trên thương trường hiện nay, yếu tố then chốt quyết định tự lực, tự cường của dân tộc chính là doanh nghiệp.

Theo ông Nghĩa, thế giới biết đến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là trong lĩnh vực xuất khẩu. Thực tế, xuất khẩu hàng hoá năm 2024 của nước ta đạt 400 tỷ USD, nhưng khu vực FDI chiếm tới 75%, doanh nghiệp Việt chủ yếu "xuất khẩu hộ". Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề, như giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu, thiếu công nghệ lõi.

Do đó, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, có 3 bài học rút ra.

Thứ nhất, muốn tự lực, tự cường, doanh nghiệp Việt phải làm chủ công nghệ, phát triển công nghiệp chế tạo bằng nội lực doanh nghiệp dân tộc.

Thứ hai, không thể mạnh nếu chỉ dựa vào thương mại hay bất động sản, mà phải có trụ cột sản xuất, chế tạo và công nghệ.

Thứ ba, riêng lĩnh vực bất động sản cần từ kênh đầu tư ngắn hạn sang nền tảng hạ tầng cho công nghiệp hóa và đô thị hóa bền vững. Cụ thể, cần đẩy mạnh phát triển bất động sản công nghiệp, đô thị, công nghệ gắn với chiến lược sản xuất và đổi mới sáng tạo; quan tâm phát triển nhà ở thương mại vừa túi tiền.

"Hãy nhìn vào bài học thành công của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc khi thu hút FDI bằng lợi thế công nghệ. Trong khi đó, Việt Nam và Malaysia “mở toang thị trường”, “lôi kéo tối đa”, nhưng vẫn kém hấp dẫn với các nhà đầu tư lớn do thị trường còn non trẻ, thiếu lợi thế cạnh tranh. Do đó, sức mạnh thực sự của đội ngũ doanh nhân dân tộc, của một quốc gia tự lực, tự cường đến từ mục tiêu "xây tổ khổng tước": Quy tụ nhân tài, kiến tạo sức mạnh trí tuệ", ông Nghĩa nhấn mạnh.

Toàn cảnh Hội thảo "Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng" doTạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES) tổ chức.

Còn Đại sứ Phạm Quang Vinh cho rằng, doanh nghiệp dân tộc chắc chắn phải là doanh nghiệp Việt Nam, nhưng không chỉ mang “quốc tịch Việt Nam”, mà còn phải thể hiện bản sắc Việt, trí tuệ Việt và khát vọng Việt. Dù là doanh nghiệp trong nước, nhưng cần hướng đến mục tiêu vươn ra toàn cầu (go global), không dừng lại ở vai trò gia công, phụ trợ, mà phải tiến lên các phân khúc cao hơn trong chuỗi giá trị, đồng thời, dù là doanh nghiệp Việt, thì phải đủ quy mô để giữ vai trò đầu tàu.

Về mặt chính sách, cần xác định rõ doanh nghiệp quy mô lớn có thể dẫn dắt một số lĩnh vực then chốt, trọng yếu, Nhà nước sẽ đóng vai trò định hướng lựa chọn lĩnh vực. Nhưng chắc chắn, xu hướng chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là tất yếu. Những gì đã có, phải tiếp tục củng cố và làm mạnh hơn; những gì còn yếu hoặc chưa hình thành, phải khắc phục, chuyển đổi để bắt kịp xu thế, đặc biệt là trong phát triển xanh.

"Doanh nghiệp dân tộc không chỉ là những doanh nghiệp đã lớn mạnh, mà còn bao gồm những doanh nghiệp đang nỗ lực vươn lên. Chính sách ưu tiên hiện nay dành cho các doanh nghiệp “đầu tàu”, nhưng cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp khác có cơ hội vươn mình, hình thành một hệ sinh thái doanh nghiệp dân tộc cùng phát triển.

"Tôi cho rằng, đột phá thực sự nằm ở chính sách ưu tiên dành cho doanh nghiệp dân tộc, phải làm sao để khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy được sức mạnh của lực lượng này", ông Vinh nhấn mạnh.

Dưới góc nhìn khác, GS.TSKH.NGND Vũ Minh Giang cho rằng, không nên giới hạn quy mô “doanh nghiệp dân tộc” trong phạm vi doanh nghiệp lớn, bởi như thế sẽ vô tình làm thiệt thòi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn là lực lượng rất năng động và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế, nếu vẫn giữ cách tiếp cận cũ thì sẽ tự tạo ra bất lợi cho mình trong dòng chảy giao thương toàn cầu.

"Như vậy, theo tôi, chỉ cần là doanh nghiệp yêu nước, làm việc vì lợi ích của đất nước, thì đều xứng đáng được gọi là doanh nghiệp dân tộc. Bên cạnh đó, cũng không nên vội vàng gắn danh hiệu doanh nghiệp dân tộc, mà cần chú trọng vào khâu tạo điều kiện, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển và họ sẽ được vinh danh khi có kết quả đóng góp cho đất nước", ông  Vũ Minh Giang nêu quan điểm.

Dưới góc độ pháp lý, GS.TS. Lê Hồng Hạnh cho biết, hiện tại, khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” trong hệ thống pháp lý và nền kinh tế của các quốc gia là không tồn tại. Tại Việt Nam, hiện không có khái niệm chuẩn trong Nghị quyết 41 cũng như trong các bộ luật liên quan đến doanh nghiệp và luật tài chính thương mại.

Theo ông Hạnh, nếu muốn phát triển doanh nghiệp dân tộc, trước tiên cần làm rõ tư cách pháp lý của đối tượng này.

"Tôi đọc rất nhiều bài viết về doanh nghiệp dân tộc của các doanh nhân, các nhà khoa học…, nhưng chưa kiến giải được thế nào là doanh nghiệp dân tộc. Thậm chí có sự mâu thuẫn khi có người nói doanh nghiệp dân tộc phải bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, có người lại cho rằng chỉ doanh nghiệp lớn mới được coi là doanh nghiệp dân tộc", GS.TS. Lê Hồng Hạnh chia sẻ góc nhìn.

"Tôi cho rằng, mọi tiêu chuẩn đều có thể đúng, nhưng chưa đủ. Một doanh nghiệp nhỏ dù có làm tốt đến đâu cũng chưa phải là biểu tượng của dân tộc vì không tạo ra hình ảnh của dân tộc, không có vai trò dẫn dắt nền kinh tế. Hay một doanh nghiệp lớn dù có quy mô lớn, doanh thu lớn, nhưng hoạt động không hiệu quả, chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay để duy trì thì vai trò dẫn dắt cũng không rõ ràng. Hay một doanh nghiệp có thương hiệu tốt, rất nổi tiếng, nhưng không thể hiện được vai trò xã hội thì có được coi là doanh nghiệp dân tộc được không?

Theo tôi, nên coi doanh nghiệp dân tộc là một danh hiệu biểu tượng giống như danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Anh hùng dân tộc…, giống như chúng ta từng vinh danh các nhà tư sản trước đây. Biểu tượng này đóng vai trò rất quan trọng, mang đậm dấu ấn riêng của Việt Nam", GS.TS. Lê Hồng Hạnh nêu quan điểm

Chủ tịch KN Holdings: Cần cơ chế đột phá để doanh nghiệp dân tộc vươn tầm quốc tế
Doanh nhân Lê Văn Kiểm, Chủ tịch KN Holdings kỳ vọng thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục thúc đẩy các cơ chế, chính sách đột phá nhằm phát...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư