
-
Người đàn ông nhập viện nguy kịch vì tự ý ngừng thuốc điều trị huyết áp
-
Hà Nội tăng cường phòng, chống bệnh Chikungunya
-
TP.HCM bổ sung 4 trạm cấp cứu vệ tinh tại Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu
-
Khánh thành hai bệnh viện trọng điểm chào mừng 80 năm Quốc khánh -
Bộ Y tế chỉ đạo khẩn vụ bé 13 tháng tuổi tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh
Ngăn biến chứng nguy hiểm ở người tiểu đường bằng vắc-xin
Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ nhiễm phế cầu cao gấp ba lần người bình thường, đây là một trong những cảnh báo được đưa ra tại Hội thảo khoa học chuyên đề “Vai trò của dự phòng trong quản lý nhiễm trùng phế cầu trên bệnh nhân đái tháo đường” vừa diễn ra.
![]() |
Ảnh minh họa. |
Theo các chuyên gia, vi khuẩn phế cầu là tác nhân hàng đầu gây viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết và tử vong, đặc biệt ở người cao tuổi và các nhóm bệnh nền.
Đáng lo ngại, phế cầu có thể làm trầm trọng thêm các bệnh lý đường hô hấp do virus như cúm, RSV, nhất là ở bệnh nhân đái tháo đường, những người vốn đã có hệ miễn dịch suy giảm. Tiêm vắc-xin phòng bệnh là ưu tiên quan trọng trong kiểm soát bệnh lý nền, song cần đảm bảo đúng chỉ định theo từng đối tượng cụ thể.
Còn theo TS.Lâm Văn Hoàng, chuyên gia Nội tiết - Đái tháo đường, hiện có khoảng 537 triệu người đang sống chung với đái tháo đường trên toàn cầu và con số này dự kiến sẽ tăng lên 643 triệu người vào năm 2030.
Riêng tại Việt Nam, theo số liệu năm 2021, có hơn 5 triệu người mắc đái tháo đường nhưng chỉ khoảng 50% trong số đó được chẩn đoán và điều trị. Đây là căn bệnh mạn tính với nhiều biến chứng nguy hiểm như hôn mê tăng đường huyết, viêm phổi, nhiễm trùng toàn thân, có thể dẫn đến tử vong nếu không được kiểm soát tốt.
Nghiên cứu cho thấy, cứ 3 bệnh nhân đái tháo đường nhập viện vì nhiễm trùng thì có 1 người mắc viêm phổi. Tình trạng tăng đường huyết khiến hệ miễn dịch bị rối loạn, suy yếu cơ chế phòng vệ chống lại vi sinh vật, trong đó viêm phổi do phế cầu là một trong những bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất ở nhóm bệnh nhân này.
Phế cầu thường ủ bệnh từ 1-3 ngày, khởi phát đột ngột với các triệu chứng như sốt cao, rét run, ho có đờm mủ, đau ngực, khó thở, thiếu oxy máu, nhịp tim nhanh, mệt mỏi… Nếu không điều trị kịp thời, tỷ lệ tử vong có thể lên tới 50%.
Theo BS.CKI Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống Trung tâm Tiêm chủng VNVC, người từ 50 tuổi trở lên nếu có từ hai bệnh nền thì nguy cơ viêm phổi phế cầu cao gấp 5 lần, và nếu có từ ba bệnh nền trở lên thì nguy cơ này tăng đến 12,8 lần so với người không mắc bệnh nền.
Nhiễm phế cầu không chỉ gây viêm phổi mà còn làm trầm trọng thêm các bệnh lý mạn tính như khí phế thủng, COPD, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, viêm phế quản mạn, và đặc biệt là đái tháo đường.
Hiệu quả của tiêm vắc-xin phòng phế cầu đã được chứng minh qua nghiên cứu lâm sàng CAPiTA trên người trưởng thành từ 65 tuổi trở lên.
Trong đó, 42,3% bệnh nhân có ít nhất một bệnh nền và việc tiêm vắc-xin đã giúp giảm tỷ lệ mắc viêm phổi cộng đồng, cũng như giảm nguy cơ nhập viện.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã khuyến cáo sử dụng vắc-xin cộng hợp PCV20 cho người từ 18 tuổi trở lên để chủ động phòng ngừa các bệnh do phế cầu, đặc biệt là bệnh xâm lấn và viêm phổi.
Những người trên 50 tuổi, bất kể có yếu tố nguy cơ hay không cũng như người từ 18 tuổi trở lên có bệnh mạn tính như tim mạch, phổi, gan, đái tháo đường, hút thuốc lá, nghiện rượu hoặc suy giảm miễn dịch đều được khuyến cáo tiêm ngừa.
Bác sỹ Chính nhấn mạnh, vắc-xin phế cầu cộng hợp như PCV20 không chỉ an toàn mà còn mang lại miễn dịch bền vững, tạo đáp ứng kháng thể hiệu quả đối với các huyết thanh phế cầu có trong vắc-xin. Điều này đặc biệt quan trọng trong điều trị dự phòng cho bệnh nhân đái tháo đường - nhóm có nguy cơ cao bị biến chứng nặng khi mắc viêm phổi do phế cầu.
PGS-TS.Trần Quang Bính kết luận, trong bối cảnh tình trạng kháng thuốc ngày càng gia tăng và các bệnh nền ngày càng phổ biến, tiêm chủng là giải pháp dự phòng tối ưu để bảo vệ người bệnh khỏi nguy cơ diễn tiến nặng và tử vong.
Vắc-xin phế cầu cần được xem là biện pháp thiết yếu, đặc biệt với bệnh nhân đái tháo đường, nhóm đang ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng.
Dịp hè, số ca trẻ điều trị khuyết tật tăng gấp ba
Trong hai tháng hè (tháng 6 và 7), số lượng trẻ đến điều trị các dị tật, khuyết tật tại khoa Ngoại nhi, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM tăng đột biến, gấp khoảng 3 lần so với các thời điểm khác trong năm.
BS.CKII Nguyễn Đỗ Trọng, khoa Ngoại nhi, cho biết phần lớn bệnh nhi đến điều trị trong dịp này mắc các dị tật phổ biến như thoát vị bẹn, lõm ngực, dính thắng lưỡi, thừa ngón tay hoặc ngón chân…
Việc điều trị được phụ huynh chủ động sắp xếp vào kỳ nghỉ hè nhằm tránh ảnh hưởng đến việc học và tạo điều kiện thuận lợi cho chăm sóc sau phẫu thuật.
Trường hợp của bé An (14 tuổi), con trai anh Đức (48 tuổi), được phát hiện bị lõm ngực độ 4, mức nặng với phần xương ức và sụn sườn bị lõm sâu hơn 3,25 cm.
Sau khi khám vào tháng 4, bé được bác sỹ chỉ định phẫu thuật nhưng gia đình quyết định hoãn đến kỳ nghỉ hè để thuận tiện cho việc điều trị.
Tại khoa Ngoại nhi, bé An được phẫu thuật nội soi bằng phương pháp hiện đại là bác sỹ đưa camera vào lồng ngực để quan sát các cơ quan, tạo đường hầm dưới xương ức và đưa hai thanh kim loại vào nâng phần ngực lõm. Sau một tuần hậu phẫu, bé hồi phục tốt và được xuất viện.
“Con điều trị trong dịp nghỉ hè nên không ảnh hưởng học tập, gia đình cũng có thời gian chăm sóc con nhiều hơn”, anh Đức chia sẻ.
Cùng thời điểm, gần 20 trẻ khác đang được điều trị ngoại khoa tại khoa Ngoại nhi với các chẩn đoán thường gặp như viêm ruột thừa, thừa ngón tay, cắt thắng lưỡi, thoát vị bẹn...
Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2023, Việt Nam hiện có khoảng 1,2 triệu trẻ khuyết tật trong độ tuổi từ 0-17, chiếm 3,1% tổng số trẻ em. Trong đó, khoảng 55-65% nguyên nhân là do bẩm sinh, phần còn lại do bệnh tật hoặc tai nạn.
Mỗi loại khuyết tật có thời điểm can thiệp y khoa lý tưởng. Ví dụ, trẻ bị lõm ngực nên phẫu thuật trước 12 tuổi để xương còn mềm, dễ định hình và thẩm mỹ hơn.
Có nhiều trường hợp trẻ bị khuyết tật nhưng chưa được phát hiện do không biểu hiện rõ. Phụ huynh nên chủ động đưa trẻ đi khám sức khỏe định kỳ để kịp thời phát hiện và điều trị, tránh ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe và tâm lý”, bác sỹ Trọng khuyến cáo.
Hậu Covid-19, nhiều người tăng cân khó kiểm soát
Sau thời gian dài giãn cách vì dịch bệnh, nhiều người tăng cân chóng mặt, kéo theo loạt hệ lụy sức khỏe nghiêm trọng. Dù đã nỗ lực giảm cân suốt 4 năm qua, không ít người vẫn không thể trở về cân nặng ban đầu.
Chị Kim, TP.HCM là ví dụ điển hình. Chỉ trong vài tháng giãn cách, chị tăng hơn 20 kg. Sau nhiều năm nỗ lực giảm cân bằng nhiều phương pháp, chị vẫn không cải thiện được cân nặng.
Kết quả xét nghiệm cho thấy chị đang đối mặt với hàng loạt biến chứng do béo phì như gan nhiễm mỡ độ 3, rối loạn lipid máu, tiền tiểu đường, tăng axit uric, buồng trứng đa nang… Đặc biệt, chỉ số mỡ nội tạng của chị lên tới 215 cm², cao gấp đôi ngưỡng an toàn.
Theo các chuyên gia y tế, lượng mỡ nội tạng cao không chỉ gây rối loạn chuyển hóa mà còn làm tăng đề kháng insulin, nguy cơ mắc tiểu đường, đồng thời kích thích phản ứng viêm trong cơ thể, góp phần gây ra các bệnh lý nghiêm trọng như tim mạch, đột quỵ, ung thư đại trực tràng…
Ngoài ra, lượng mỡ nội tạng dư thừa còn liên quan đến nhiều vấn đề sức khỏe khác như sa sút trí tuệ, bệnh gút, hen suyễn, viêm xương khớp, đau lưng mãn tính, ung thư vú và thậm chí là Alzheimer.
Tương tự, anh Nguyên (35 tuổi, TP.HCM) cũng gặp tình trạng tăng cân không kiểm soát trong mùa dịch. “Tôi tăng từ 80 kg lên 90 kg dù đã cố gắng vận động trong nhà. Không gian chật hẹp khiến tôi không thể luyện tập hiệu quả. Sau hai lần mắc Covid-19, sức khỏe tôi yếu đi rõ rệt, dễ mệt khi vận động hay mang vác nặng”, anh chia sẻ. Sau dịch, cân nặng của anh không giảm mà còn gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày.
Được bạn bè giới thiệu, anh đến viện để điều trị. Theo tư vấn của bác sỹ điều trị, một trong những nguyên nhân khiến nhiều người khó giảm cân sau khi đã tăng cân quá mức là do "trí nhớ" của tế bào mỡ.
Khi một người tăng cân, các tế bào mỡ không tăng về số lượng mà sẽ phình to ra để chứa nhiều chất béo hơn. Chính các tế bào này sẽ "ghi nhớ" mức cân nặng cũ và có xu hướng bảo vệ nó, khiến việc giảm cân trở nên khó khăn hơn.
Muốn giảm cân hiệu quả, phải giữ được tình trạng cân nặng giảm ổn định trong ít nhất 3-6 tháng để tái lập trí nhớ mới cho tế bào mỡ. Ngoài việc điều chỉnh chế độ ăn uống và luyện tập, điều trị béo phì hiện nay cần cá thể hóa, xây dựng phác đồ riêng cho từng người, kết hợp giữa nội khoa, dinh dưỡng và vận động phù hợp.
Chỉ sau 2 tuần theo phác đồ chuyên biệt, chị Kim đã giảm 5 kg, anh Nguyên giảm được 4 kg và cả hai đang tiếp tục theo đuổi lộ trình giảm cân an toàn, đặt mục tiêu giảm 18-20 kg trong thời gian tới.
Béo phì không chỉ là vấn đề về hình thể mà là căn bệnh thực sự, cần được chẩn đoán, điều trị bài bản và kết hợp nhiều yếu tố. Nếu để lâu, các biến chứng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tuổi thọ.
-
Tin mới y tế ngày 19/8: Ngăn biến chứng nguy hiểm ở người tiểu đường bằng vắc-xin -
Bộ Y tế chỉ đạo khẩn vụ bé 13 tháng tuổi tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh -
Phát hiện sớm tổn thương tiền ung thư nhờ xét nghiệm mới -
Dịch bệnh truyền nhiễm đang gia tăng tại Hà Nội -
Tin mới y tế ngày 18/8: Gia tăng các bệnh lý về da ở trẻ trong kỳ nghỉ hè -
Về nước chữa bệnh: Xu thế mới của Việt kiều -
Hướng dẫn mới nhất về khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế
-
Chứng khoán Rồng Việt 4 năm liên tiếp nhận giải “Nơi làm việc tốt nhất châu Á”
-
SeABank kết hợp cùng ca sĩ Mỹ Tâm ra mắt thẻ Visa SeASoul 2in1 - Trải nghiệm tài chính đầy cảm xúc
-
NCB ra mắt thẻ visa Tự Hào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc Khánh
-
United International Pharma (UIP) 5 năm liên tiếp đạt Giải thưởng “Nơi làm việc tốt nhất châu Á”
-
SHS khẳng định chiến lược phát triển nguồn lực con người với cú đúp “Nơi làm việc tốt nhất châu Á”
-
Acecook Việt Nam đạt giải thưởng Nơi làm việc tốt nhất châu Á