
-
Tôi đi gỡ rối thương vụ M&A khu công nghiệp ngàn tỷ
-
Những người thầy của phóng viên giao thông
-
Báo chí- Nhịp cầu thông tin, tiếp sức doanh nghiệp vững bước
-
Từ phóng viên tài chính đến “nhà báo tòa” -
Báo chí củng cố vai trò người đồng hành tin cậy
![]() |
Tập đoàn truyền thông cần bảo đảm hài hòa giữa thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động kinh tế truyền thông. Ảnh: Đ.T |
1.
Tập đoàn truyền thông là một tổ hợp gồm các công ty hoạt động trong một hoặc nhiều ngành thuộc lĩnh vực truyền thông, trong đó thường có ngành báo chí làm nòng cốt. Tập đoàn bao gồm một công ty mẹ là hạt nhân, giữ vai trò là đầu mối liên kết nội bộ tập đoàn và nắm quyền lãnh đạo, chi phối các công ty con về mặt định hướng tư tưởng chung nhất, chiến lược hoạt động, công tác cán bộ, tài chính.
Một số tập đoàn truyền thông lớn hàng đầu thế giới chi phối và có ảnh hưởng rất lớn tới thị trường truyền thông toàn cầu, như Apple, Netflix, Walt Disney, AT&T, Sony, Thomson Reuters… Hệ thống phương tiện truyền thông của các nước khác phụ thuộc khá lớn vào các chương trình và sản phẩm thông tin - giải trí - công nghệ của các tập đoàn truyền thông lớn này.
2.
Hình thức tổ chức tập đoàn truyền thông trên thế giới hết sức đa dạng, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có thể chia thành 3 loại hình chính.
Một là, tập đoàn truyền thông đa lĩnh vực, đa ngành, quy mô lớn, liên kết hỗn hợp. Các tập đoàn này có vị trí thống trị ở thị trường truyền thông trong nước, đồng thời bành trướng hoạt động ở nhiều thị trường trên thế giới.
![]() |
TS. Lê Hải, Ủy viên Ban Biên tập, Trưởng ban Tạp chí Cộng sản điện tử (Tạp chí Cộng sản) |
Cơ cấu sở hữu của tập đoàn này khá phức tạp; cấu trúc tổ chức - quản lý theo nhiều hình thức hết sức đa dạng, song phổ biến ở cấu trúc quản trị hội đồng một tầng và cấu trúc hội đồng kép. Các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới, hoạt động đa quốc gia, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị thế giới đều hoạt động theo dạng thức này.
Hai là, tập đoàn truyền thông đơn ngành báo chí, liên kết dọc chiếm vị trí chủ đạo. Cấu trúc quản trị nội bộ của các tập đoàn truyền thông theo chiều dọc nổi bật với cấu trúc các đơn vị thành viên theo chức năng tạo ra sản phẩm. Đặc trưng nổi bật của tập đoàn truyền thông dạng này là quy mô tập đoàn nhỏ hơn so với các tập đoàn đa ngành, quy mô lớn, dạng conglomerate truyền thông.
Các tập đoàn truyền thông liên kết dọc hiện nay cũng có xu hướng mở rộng sang các ngành báo chí, truyền thông khác (hoặc một số công đoạn ngành) bằng liên kết ngang, trong đó vẫn có một ngành báo chí làm hạt nhân để các ngành truyền thông vệ tinh khác phát triển xung quanh, bổ trợ và phục vụ cho ngành chính.
Ba là, tập đoàn truyền thông có lĩnh vực hoạt động và kiểu, trình độ liên kết mang tính đặc thù của Trung Quốc.
Từ năm 1979, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng phương thức quản lý như doanh nghiệp đối với một số tờ báo lớn, trong đó có Nhân Dân Nhật Báo, đánh dấu sự ra đời của cơ chế tự chủ về tài chính của báo chí Trung Quốc, là tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của các tập đoàn truyền thông, mà tiên phong là các tập đoàn báo in. Báo chí từ cơ chế bao cấp chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo pháp luật.
Trung Quốc coi báo chí là một sản phẩm đặc biệt, tòa soạn cũng là một đơn vị tổ chức đặc biệt, có vai trò quan trọng đặc biệt trong lãnh đạo và quản lý vĩ mô, giúp một quốc gia giành được chính quyền, bảo vệ chính quyền, giữ gìn ổn định chính trị và trật tự xã hội. Chính vì vai trò đó, tòa soạn báo in được coi là một đơn vị sự nghiệp. Đồng thời, báo chí lại mang các thuộc tính của hàng hóa thông thường với giá trị, giá trị sử dụng, nên tòa soạn báo cũng là tổ chức, doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa đó và nó mang thuộc tính của sản nghiệp.
Thực tiễn đổi mới cho thấy, Trung Quốc xác định, báo chí là đơn vị sự nghiệp, nhưng hoạt động và quản lý theo mô hình doanh nghiệp. Với phương thức này, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu quan trọng, như khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí; cắt giảm nguồn kinh phí của Đảng, Nhà nước cấp cho báo chí; là động lực thúc đẩy việc phát huy nội lực của cơ quan báo chí, thích ứng với cơ chế thị trường và nền báo chí hiện đại của thế giới để có những bước phát triển vượt bậc.
Tập đoàn phải sở hữu một tờ báo chủ có ảnh hưởng về chính trị, ảnh hưởng trong xã hội và có thương hiệu làm ngọn cờ đầu, ngoài ra có các đơn vị khác tạo nguồn thu, là chỗ dựa về kinh tế. Trong tập đoàn không phải đơn vị nào cũng có lãi, có những đơn vị nguồn thu kém, nhiều khi thua lỗ, nhưng vẫn phải tồn tại để làm nhiệm vụ công ích.
![]() |
Thực tiễn hoạt động của các tập đoàn báo in Trung Quốc cho thấy, các tờ báo chính là những ngọn cờ đầu của tập đoàn lại thường không phải là đơn vị có nguồn thu lớn nhất. Song song với việc phát triển mạnh tờ báo “mẹ” về mặt nội dung, chính trị, tư tưởng, cần phải chú ý làm tốt một hoặc một số ấn phẩm phụ tạo nguồn thu cho tập đoàn, cùng với các hoạt động kinh tế khác, quay lại bổ trợ và nuôi dưỡng tờ báo chính. Chính trị và kinh tế là hai cánh tay của tập đoàn, giữa chúng có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau, thông qua điều hành của bộ máy lãnh đạo tập đoàn. Các tập đoàn truyền thông về truyền hình, giải trí… khác của Trung Quốc có các hình thức liên kết khá đa dạng, bao gồm cả liên kết ngang, dọc và liên kết hỗn hợp, liên kết chéo kiểu conglomerate.
Sợi dây liên kết giữa các thành viên của tập đoàn chính là lợi ích kinh tế. Xương sống gắn bó này ràng buộc thông qua lợi ích chung của tập đoàn, các quan hệ đầu tư riêng giữa các thành viên…, tạo nên một phương trận chặt chẽ. Không có sự gắn bó về lợi ích kinh tế, mối liên kết giữa các thành viên sẽ giảm sút, quan hệ hợp tác khó duy trì. Chính vì vậy, để tạo sự ràng buộc về lợi ích kinh tế, tập đoàn thường sử dụng các công cụ như vay vốn qua ngân hàng riêng, cổ phần, phân phối lợi nhuận…
Cơ cấu bộ máy lãnh đạo của tập đoàn truyền thông Trung Quốc là sự vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các tập đoàn truyền thông hiện đại trên thế giới, trong điều kiện cụ thể phù hợp với đặc thù của Trung Quốc. Bộ máy này thể hiện sự lãnh đạo tập trung, song cũng có sự phân cấp mạnh đối với các bộ phận bên dưới.
Cơ cấu quản trị nội bộ có sự phân tách khá rõ rệt giữa hai bộ phận chính, gồm bộ phận về chính trị - nội dung và bộ phận kinh doanh. Sự phân định này nhằm tách bạch giữa yếu tố chính trị và kinh tế, bảo đảm tập đoàn giữ vững định hướng chính trị, chịu tác động ít nhất từ những mặt trái nền kinh tế thị trường. Giữa hai bộ phận dù có nghiệp vụ hoàn toàn độc lập nhau, song do đều nằm trong một cấu trúc và sự điều tiết của ban lãnh đạo chung, nên chúng có mối quan hệ hỗ trợ nhau khăng khít, hướng vào mục tiêu phát triển chung của cả tập đoàn.
Các tập đoàn báo chí của Trung Quốc hiện nay đã trải qua 4 giai đoạn: phát triển tự nhiên, phát triển có trật tự, cải cách sâu rộng và chuyển đổi.
Nhân Dân Nhật Báo là tập đoàn báo chí tiêu biểu của Trung Quốc, với 23 ban chức năng, 1 đơn vị sự nghiệp trực thuộc (Trung tâm New Media), 71 cơ quan thường trú ở trong nước và quốc tế. Ngoài Nhân Dân Nhật Báo hằng ngày và Nhân Dân Nhật Báo phiên bản hải ngoại, Tòa soạn còn xuất bản gần 30 ấn phẩm khác.
Những năm gần đây, Nhân dân Nhật báo đẩy mạnh phát triển truyền thông hội tụ, với việc cho ra đời trung tâm New Media và Nhân Dân Nhật Báo điện tử (people.cn) bằng các ngôn ngữ trên nhiều nền tảng, tiếp cận đa dạng công chúng trong nước và quốc tế.
Nhân Dân Nhật Báo có hơn 100 doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp trực thuộc, hình thành một tổ hợp truyền thông lấy Nhân Dân Nhật Báo hằng ngày làm chủ thể, các ấn phẩm và Nhân Dân Nhật Báo điện tử làm mạng lưới truyền thông, cùng nhiều mảng kinh doanh như in ấn, phát hành, quảng cáo, thông tin, xuất bản…
Tuy chưa từng được công nhận chính thức là tập đoàn truyền thông, nhưng Nhân Dân Nhật Báo là đơn vị đi đầu trong việc áp dụng mô hình “quản trị doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp”, nhiều đơn vị trực thuộc của tờ báo được vận hành theo mô hình công ty, niêm yết trên thị trường cổ phiếu. Điển hình là people.cn. Đây là công ty niêm yết, có các công ty con ở tất cả địa phương trong nước và nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó Nhân Dân Nhật Báo nắm giữ 79,54% cổ phần.
Đài Phát thanh và Truyền hình Thượng Hải (Tập đoàn Văn hóa, Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Thượng Hải) (gọi chung là Tập đoàn Truyền thông Thượng Hải, hay SMG) là một tập đoàn đa phương tiện chính thống mới, có ảnh hưởng quốc tế và khả năng cạnh tranh trong ngành. Hoạt động kinh doanh bao gồm các hoạt động truyền thông và truyền mạng, sản xuất nội dung và quản lý bản quyền, phương tiện truyền thông mới trên Internet, biểu diễn trực tiếp, du lịch văn hóa và bất động sản, tài chính và đầu tư văn hóa, mua sắm video và các lĩnh vực khác, hình thành nên một hệ sinh thái công nghiệp văn hóa hoàn chỉnh.
Đài Phát thanh và Truyền hình Thượng Hải là một tổ chức hàng đầu trong ngành truyền thông văn hóa quốc gia Trung Quốc. Nơi đây có hệ sinh thái ngành truyền thông văn hóa tương đối hoàn chỉnh. Hoạt động kinh doanh bao gồm toàn bộ chuỗi ngành truyền thông văn hóa, bao như hoạt động truyền thông và sáng tạo nội dung, dịch vụ kỹ thuật và quản lý bản quyền, hoạt động biểu diễn văn hóa và địa điểm, đầu tư du lịch văn hóa, phát thanh và truyền hình thông minh. Công ty sở hữu 9 kênh truyền hình bao gồm Dragon TV và China Business Network (gồm 1 kênh quốc tế), 8 tần số vô tuyến, 12 kênh truyền hình trả tiền kỹ thuật số quốc gia, 4 tờ báo và tạp chí, 7 đoàn nghệ thuật, 17 địa điểm văn hóa và du lịch, 1 công ty niêm yết. Tập đoàn đã được xếp hạng trong số 30 doanh nghiệp văn hóa hàng đầu cả nước trong 13 năm liên tiếp. Tập đoàn hiện có 15.000 nhân viên, tổng tài sản 59,5 tỷ nhân dân tệ.


Mô hình phân định rõ hai mảng hoạt động nội dung và kinh tế truyền thông, với chủ thuyết “Hai cánh tay” trong phát triển tập đoàn truyền thông, vừa bảo đảm mảng nội dung - tư tưởng là hoạt động chủ đạo, không thuần túy tập trung vào hoạt động kinh tế truyền thông như các tập đoàn phương Tây, song vẫn phát huy và khai thác được sức mạnh kinh tế truyền thông qua hoạt động đa ngành để tạo tiềm lực vật chất. Tuy nhiên, sự phân tách này cũng không thể tuyệt đối tránh được ảnh hưởng của quá trình thương mại tới hoạt động nội dung và xử lý không hài hòa, dẫn tới những lỗ hổng có thể nảy sinh hiện tượng biến tướng và tiêu cực, tham nhũng. Quan trọng hơn, phải có cơ chế vận hành mô hình tập đoàn có sự phối hợp nhuần nhuyễn trong phân tách độc lập về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận và minh bạch hóa quá trình quản trị bằng các quy định, quy chế hoạt động khoa học.
Các tập đoàn báo in của Trung Quốc lấy một ấn phẩm “mẹ” nòng cốt làm hạt nhân, tạo dựng uy tín, thương hiệu cho cả tập đoàn. Ấn phẩm này giữ vững nguyên tắc chính trị - tư tưởng và vững chắc về chất lượng nội dung, không bị ảnh hưởng bởi tác động của thị trường và quảng cáo. Từ ấn phẩm này mở rộng thêm các ấn phẩm khác “mềm” hơn về nội dung, sát với thị hiếu của các đối tượng độc giả cụ thể, chịu trách nhiệm tạo doanh thu cho tập đoàn.
Trung Quốc và Việt Nam có nhiều tương đồng về điều kiện chính trị - kinh tế - văn hóa, trong đó có cả lĩnh vực truyền thông. Xuất phát điểm của nền truyền thông của hai nước đều thấp, song việc thay đổi tư duy đối với các cơ quan báo chí, nhất là về cơ chế tài chính và phát triển các tập đoàn truyền thông đã khiến nền truyền thông của Trung Quốc phát triển vượt bậc. Các cơ quan báo chí không chỉ tự chủ, giảm gần như hoàn toàn gánh nặng cho ngân sách, mà mỗi năm còn đóng góp doanh thu hàng tỷ USD cho nền kinh tế.
Mô hình tổ chức của tập đoàn với việc bố trí nhân sự bảo đảm quyền chủ sở hữu và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; tổ chức tập đoàn phân định theo hai chức năng nội dung và kinh tế truyền thông - vừa rạch ròi, vừa có sự phối hợp, bổ trợ; phân quyền tự chủ khá cao cho các ban biên tập con cả về nội dung và tài chính… có thể áp dụng phù hợp ở Việt Nam. Cơ chế tài chính đối với cơ quan báo chí, dù có những đặc thù riêng, nhưng nếu không theo hướng mở cho phép hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước, thì khó có sự đầu tư phát triển, chưa nói tới khả năng có đủ tiềm lực để thành tập đoàn hay không.
3.
Bước vào kỷ nguyên mới của đất nước, nền báo chí, truyền thông Việt Nam cũng đứng trước cơ hội bước vào kỷ nguyên mới để phát triển. Muốn vậy, trước hết, cần có sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo, quản lý báo chí, theo hướng mở và quản lý phát triển, tạo những động lực mới cho nền báo chí phát triển, nhất là những đổi mới về mô hình tổ chức - quản lý truyền thông hiện đại, hiệu quả và “cởi trói” về cơ chế của hoạt động kinh tế truyền thông. Những vấn đề trên đều liên quan đến mô hình tập đoàn truyền thông.
Cần cấp thiết xây dựng tập đoàn truyền thông ở nước ta vì nhiều lý do.
Thứ nhất, tập đoàn truyền thông là nhu cầu phát triển khách quan nội tại của báo chí Việt Nam. Nền truyền thông của Việt Nam hiện nay có quy mô, tiềm lực còn hạn chế, sức cạnh tranh chưa cao; mạng lưới khá dàn trải, manh mún (cuối năm 2024, cả nước có 884 cơ quan báo chí, gồm 137 báo, 675 tạp chí và 72 đài phát thanh - truyền hình).
Để so sánh, Cộng hòa Liên bang Đức - quốc gia có dân số 84 triệu người, hiện có khoảng 6.000 ấn phẩm báo in, 75 đài phát thanh công lập và 385 đài phát thanh thương mại, 12 cơ quan truyền hình công và 188 truyền hình tư nhân. Mặc dù các sản phẩm báo chí nhiều hơn nước ta, song tại Đức, khoảng 10 tập đoàn truyền thông lớn nhất đã nắm giữ và sở hữu đa số các sản phẩm báo in, phát thanh, truyền hình, với sức mạnh và ảnh hưởng chính trị - kinh tế rất sâu rộng, như Tập đoàn Axel-Springer (chiếm 40% thị trường báo được đặt mua dài hạn), Bertelmann… Như vậy, đầu mối các cơ quan truyền thông không nhiều, song sản phẩm truyền thông lại đa dạng, phong phú, không trùng lắp do điều tiết nội bộ của các tập đoàn, theo sự vận động và nhu cầu khách quan của thị trường, khiến các sản phẩm truyền thông đều có đối tượng và thị trường khá riêng biệt.
Thứ hai, tập đoàn truyền thông là mô hình bảo đảm hài hòa giữa lợi ích chính trị - xã hội và lợi ích kinh tế. Mô hình tập đoàn truyền thông có thể bảo đảm hài hòa giữa việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và các hoạt động kinh tế truyền thông của cơ quan báo chí, ngay từ trong mô hình tổ chức của nó. Cấu trúc tổ chức - quản lý của một số mô hình tập đoàn truyền thông phân tách rõ và chuyên nghiệp hóa giữa hai bộ phận nội dung và kinh tế truyền thông. Sự độc lập tương đối trong tương quan bổ trợ nhau giúp mô hình tập đoàn vận hành mà không có sự chồng lấn giữa hai mảng hoạt động, trong đó nhiệm vụ chính trị - xã hội giữ vai trò chủ đạo, hoạt động kinh tế truyền thông tạo dựng nền tảng và tiềm lực vật chất để phục vụ nhiệm vụ chính trị - xã hội được thực hiện tốt hơn.
Thứ ba, tập đoàn truyền thông - mô hình bổ trợ nền truyền thông Việt Nam thích ứng với các xu thế phát triển mới của nền truyền thông hiện đại. Việc thành lập các tập đoàn truyền thông không phải là chìa khóa vạn năng có thể thay đổi được toàn bộ nền truyền thông Việt Nam trong một sớm, một chiều, song mô hình phát triển này chắc chắn sẽ là một tác nhân quan trọng thúc đẩy nền truyền thông của Việt Nam phát triển.
Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi năm 2025) đưa “tổ hợp báo chí truyền thông” vào là bước tiến lớn về tư duy và cách thức lãnh đạo, quản lý phát triển báo chí. Đây sẽ là tiền đề để sau khi Luật ra đời, sẽ có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về mô hình tổ chức - quản lý tiên tiến này, góp phần mở ra bước tiến lớn cho sự phát triển của nền báo chí Việt Nam, tiệm cận nền báo chí hiện đại của thế giới. Tuy nhiên, nên định danh chính xác hơn thuật ngữ “tổ hợp báo chí truyền thông” thành “tập đoàn truyền thông”. Mô hình tập đoàn truyền thông là hình thức tổ chức - quản lý phát triển cao nhất trong tổ chức - quản lý một tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp truyền thông hiện nay. Nó là thành tựu chung từ sự phát triển của nền báo chí nhân loại, không phải là sản phẩm chỉ có ở các nước tư bản, ở nền báo chí tư bản. Tập đoàn truyền thông là mô hình tổ chức quản lý tất yếu khách quan ra đời từ sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh vực truyền thông. Khi lực lượng sản xuất qua quá trình tích lũy phát triển ngày càng cao sẽ tất yếu đòi hỏi có quan hệ sản xuất phù hợp, biểu hiện tập trung ở hình thức tổ chức - quản lý tập đoàn truyền thông.
Không có mô hình tổ chức - quản lý nào là mẫu số chung cho việc áp dụng vào tất cả các nền báo chí, trong đó có Việt Nam, song rõ ràng, thành công từ mô hình tập đoàn truyền thông của Trung Quốc là những kinh nghiệm, bài học rất hữu ích.
Trên cơ sở tham khảo mô hình tập đoàn truyền thông trên thế giới, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc xây dựng tập đoàn truyền thông nên bảo đảm các quan điểm sau:
Một là, bảo đảm tuyệt đối vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí và hoạt động báo chí, các tập đoàn truyền thông khi được thành lập, thông qua việc nắm 100% vốn, thông qua công tác nhân sự và thông qua pháp luật…
Hai là, hình thành các tập đoàn truyền thông bằng cách kết hợp cả con đường tự thân tích lũy (chọn những cơ quan báo chí có sẵn tiềm lực) với con đường bằng biện pháp hành chính (chỉ định sáp nhập, hợp nhất căn cứ vào những sự tương đồng và hợp lý, coi trọng việc tuân theo các quy luật chính trị, kinh tế). Nên thí điểm một số tập đoàn để đúc rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng.
Ba là, áp dụng các cơ quan báo chí vận hành theo mô hình doanh nghiệp nhà nước, có sự tự chủ trong kinh doanh truyền thông, đồng thời gia tăng đặt hàng và đầu tư của Đảng, Nhà nước. Cơ chế tài chính và đầu tư trong các cơ quan báo chí có vai trò quyết định đến việc thành lập và vận hành tập đoàn truyền thông. Các tập đoàn này là đơn vị sự nghiệp, nhưng quản trị theo mô hình doanh nghiệp, cần ghi rõ trong Luật là các cơ quan báo chí “hoạt động như doanh nghiệp nhà nước”.
Bốn là, tư duy lãnh đạo quản lý báo chí cần đổi mới. Càng mở cơ chế, càng để báo chí phát triển, thì càng dễ quản lý; càng bó cứng, càng kém phát triển, càng tiềm ẩn nguy cơ, càng khó quản lý.
Năm là, cần có những tập đoàn truyền thông mang thương hiệu và ảnh hưởng khu vực và quốc tế, thì mới làm chủ được thị trường thông tin trong nước và cạnh tranh được với các tập đoàn truyền thông thế giới.
Sáu là, có sự phân biệt khá rạch ròi và cơ chế cho các hoạt động truyền thông công, phục vụ nhiệm vụ chính trị, giáo dục với các hoạt động sản xuất các chương trình, sản phẩm báo chí giải trí, tạo nguồn thu. Tăng cơ chế đặt hàng của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động truyền thông công và thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Bảy là, sau khi Luật Báo chí (sửa đổi năm 2025) ra đời, có quy định về tập đoàn truyền thông, nên thí điểm một số tập đoàn truyền thông ở các mô hình tổ chức - quản lý tập đoàn truyền thông khác nhau, để mở ra các không gian và nguồn lực phát triển mới.

-
Xây dựng tập đoàn truyền thông: Giải pháp đột phá giải phóng nguồn lực cho báo chí phát triển -
Báo chí củng cố vai trò người đồng hành tin cậy -
“Gen Z” làm báo: Dấn thân để trưởng thành -
Cây bàng vuông và màu xanh hải đảo -
Báo chí kinh tế và cuộc “trẻ hóa” độc giả -
Trường Sa trong tôi -
Viết vì trách nhiệm, chứ không vì “lượt bấm”
-
Meey Group “ẵm” liền 2 giải tại I4.0 Awards lần thứ tư
-
Công ty Xi măng Long Sơn: Từ vùng đá vôi Bỉm Sơn vươn tầm quốc tế
-
SeABank thông báo mời thầu
-
Công bố logo hãng hàng không nghỉ dưỡng Sun PhuQuoc Airways
-
Đặc quyền ưu tiên từ VietinBank: Nâng tầm trải nghiệm - Khẳng định vị thế
-
Nghiên cứu lâm sàng: Sự khẳng định chất lượng sản phẩm bằng khoa học