Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Chủ Nhật, Ngày 28 tháng 04 năm 2024,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua:
Cấm ngân hàng bán bảo hiểm "bia kèm lạc"; ngăn ông chủ ngân hàng tuồn vốn cho sân sau
Thùy Liên - 21/01/2024 10:02
 
Quốc hội thông qua Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi; liên bộ phối hợp quản lý thị trường vàng, cổ phiếu ngân hàng trước làn sóng tăng vốn, 8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2024... là tâm điểm ngân hàng tuần qua.

Lợi nhuận ngân hàng vẫn “trông cậy” vào tín dụng

Tăng trưởng tín dụng được kỳ vọng cải thiện sẽ tác động tích cực lên lợi nhuận ngân hàng trong bối cảnh thu ngoài lãi ảm đạm, nhất là mảng kinh doanh bảo hiểm.

Đến thời điểm này, hầu hết các nhà băng chưa đưa ra báo cáo tài chính năm 2023, song theo đánh giá từ lãnh đạo một ngân hàng, bên cạnh những ngân hàng đạt lợi nhuận cao, không ít nhà băng hụt chỉ tiêu kinh doanh. Tăng trưởng tín dụng 3 quý đầu năm chậm, riêng quý cuối năm sôi động hơn, nhưng cũng khá cạnh tranh về lãi suất, nên biên lãi thuần thu hẹp. Tuy nhiên, đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng năm qua vẫn chủ yếu từ tín dụng.

Thị trường bảo hiểm chưa phục hồi sau cuộc khủng hoảng niềm tin, có ngân hàng giảm tới 80% thu nhập từ hoạt động bán bảo hiểm. Công ty chứng khoán KBSV còn cho rằng, trong ngắn hạn, ngành ngân hàng vẫn phải đối diện với những khó khăn từ làn gió ngược trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động bancassurance. Do đó, nguồn thu từ hai mảng ngân hàng đầu tư và kinh doanh bảo hiểm cần thêm thời gian mới có thể hồi phục. 

MB vừa công bố lợi nhuận năm 2023 đạt 24.688 tỷ đồng, tăng 22% - cao hơn VietinBank (hơn 24.000 tỷ đồng) nhưng thấp hơn Agribank (25.300 - 25.400 tỷ đồng), BIDV (26.750 tỷ đồng) và Vietcombank (40.400 tỷ đồng). Tính đến ngày 31/12/2023, tín dụng của MB đạt 615.400 tỷ đồng, tăng 28,8% so với đầu năm - cao hơn đáng kể so với mức tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế (13,71%) cũng như các nhà băng thuộc nhóm Big4.

LPBank cho biết, Ngân hàng thu về hơn 7.000 tỷ đồng lợi nhuận trong năm 2023. Tổng tài sản của Ngân hàng tính đến cuối năm đạt hơn 382.953 tỷ đồng, tăng 48%% so với đầu năm. Tăng trưởng tín dụng đạt 39.686 tỷ đồng, với tỷ lệ 16,83%, phù hợp với hạn mức được Ngân hàng Nhà nước giao.

Theo Tổng giám đốc OCB, ông Nguyễn Đình Tùng, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng này trong năm 2023 đạt 21%, trong đó dư nợ tăng cao nhất vào tháng cuối năm. Tuy nhiên, có những khoản vay mới được giải ngân với lãi suất chỉ 6%/năm, thấp hơn một nửa so với giai đoạn mặt bằng lãi suất cao đầu năm.

Kết quả điều tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, các tổ chức tín dụng kỳ vọng, tình hình kinh doanh sẽ khả quan hơn từ quý I/2024 và cả năm 2024, nhưng lợi nhuận trước thuế có thể phục hồi chậm hơn. Các nhà băng vẫn thận trọng khi xây dựng kế hoạch năm 2024, dù không ít ngân hàng đạt mức lợi nhuận lên đến hàng tỷ USD trong năm 2023.

Theo dự báo của Công ty cổ phần Chứng khoán SSI, năm 2024 tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với ngành ngân hàng về chất lượng tài sản. Tuy vậy, tình hình chung sẽ có sự cải thiện so với năm 2023, phần lớn nhờ chi phí vốn đã giảm về mức thấp hơn nhiều, lãi suất huy động chạm “đáy” và lợi nhuận trước dự phòng có sự cải thiện, các nhà băng có dư địa để tạo một bộ đệm dự phòng tốt hơn.

Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2024 duy trì ở mức 12% và vẫn chịu áp lực từ nền kinh tế, cũng như thị trường bất động sản chậm phục hồi. Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế toàn ngành có thể không bằng năm ngoái, nhưng sẽ đạt khoảng 10%.

Theo các chuyên gia của VCBS, sự phân hóa về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng tiếp tục diễn ra và càng mạnh mẽ hơn. Trong trường hợp thị trường bất động sản và kinh tế vĩ mô hồi phục chậm, lợi nhuận các ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm. Ngược lại, ngân hàng có bộ “đệm” mạnh, hay các ngân hàng có kế hoạch tăng vốn năm nay sẽ có động lực tăng trưởng mạnh, kỳ vọng vượt bình quân ngành, với mức tăng lợi nhuận 18-20%. 

Ngân hàng đón làn sóng tăng vốn, cổ phiếu vua có còn hấp dẫn

Năm 2024, các ngân hàng tiếp tục được khuyến khích chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn, làm dày bộ đệm vốn. Cổ phiếu ngân hàng cũng được dự đoán sẽ hút dòng tiền nhờ triển vọng khả quan.

Ngay từ đầu năm 2024, nhiều ngân hàng đã rục rịch thực hiện kế hoạch trả cổ tức bằng cổ phiếu. Cụ thể, BacABank chuẩn bị phát hành hơn 62,5 triệu cổ phiếu để trả cổ tức, tương ứng tỷ lệ 7,5%. Saigonbank cũng sắp phát hành cổ phiếu để trả cổ tức theo tỷ lệ 10%. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có văn bản chấp thuận việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng NCB, LPBank…

Trong vòng một năm qua, đã có hơn 20 ngân hàng thương mại được NHNN chấp thuận tăng vốn điều lệ. Dự kiến, tại mùa đại hội đồng cổ đông 2024, sẽ có nhiều ngân hàng TMCP công bố kế hoạch chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn.

Hiện nay, nhiều ngân hàng lớn đã công bố kế hoạch tăng vốn thông qua chia cổ tức bằng cổ phiếu. Ông Trần Minh Bình, Chủ tịch HĐQT VietinBank cho biết, ngân hàng này đã nhận được ý kiến của NHNN và Bộ tài chính cho phép giữ lại toàn bộ lợi nhuận năm 2022 để tăng vốn thông qua chia cổ tức bằng cổ phiếu.

“VietinBank đề xuất các cơ quan có thẩm quyền cho phép được giữ lại toàn bộ lợi nhuận năm 2023 để tăng vốn; phê duyệt chủ trương cho phép VietinBank được giữ lại toàn bộ lợi nhuận hàng năm của giai đoạn 2024-2028 để tăng vốn, nâng cao năng lực tài chính, mở rộng dư địa tăng trưởng tín dụng”, ông Trần Minh Bình đề nghị.

Trong bối cảnh nợ xấu tăng cao, sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế lớn, việc gia cố nền tảng vốn của hệ thống ngân hàng đặc biệt quan trọng. Đây cũng là chủ trương của NHNN. Trước đó, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 của VietinBank, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú khuyến khích ngân hàng trả cổ tức bằng cổ phiếu để tập trung nguồn lực tài chính cho xử lý nợ xấu trong năm 2024.

Cổ phiếu ngân hàng hầu như không có cơn sóng nào trong năm 2023, song đã có sự khởi sắc ấn tượng trong những tuần đầu năm 2024. Ông Trương Hiền Phương, Giám đốc cấp cao Công ty chứng khoán KIS Việt Nam lý giải, sở dĩ giá cổ phiếu ngân hàng tăng đầu năm là do một số yếu tố tích cực, như NHNN phân bổ room tín dụng năm 2024 khá cao, lãi suất cho vay giảm có thể kích thích cầu tín dụng tăng trở lại.

Trung tâm Phân tích Công ty Chứng khoán SSI (SSI Research) cho rằng, tín dụng năm 2024 có thể tăng 14% chủ yếu nhờ vào khối khách hàng doanh nghiệp; biên lãi ròng (NIM) có thể phục hồi 9 điểm cơ bản; tăng trưởng thu nhập ròng ngoài lãi tăng khoảng 7%... là những yếu tố giúp lợi nhuận ngân hàng năm 2024 khả quan.

Mặc dù vậy, nợ xấu gia tăng, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp khó khăn đang là những rủi ro hiện hữu. Rủi ro suy giảm chất lượng tài sản trong năm 2024 có thể đến từ những khoảng trống pháp lý khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực từ cuối năm ngoái và Thông tư 02/2023/TT-NHNN về việc tái cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ sẽ hết hiệu lực vào tháng 6/2024.

Trong bối cảnh khó khăn, thuận lợi đan xen, các chuyên gia phân tích của SSI Research duy trì quan điểm trung lập đối với cổ phiếu ngành ngân hàng trong năm 2024 do quá trình củng cố bộ đệm dự phòng tiếp diễn, khiến lợi nhuận toàn ngành chưa thể bứt tốc mạnh mẽ ngay, ngoại trừ một số ngân hàng có chất lượng tài sản tốt, được cấp room tín dụng cao.

Trong khi đó, Công ty Chứng khoán KBSV cho rằng, bức tranh tổng thể của toàn ngành đã xuất hiện những điểm sáng để cổ phiếu của nhóm này xứng đáng được tái định giá ở mức cao hơn. Nhà đầu tư có thể lựa chọn một số nhóm cổ phiếu ngân hàng như nhóm có bộ đệm vững chắc, chiến lược phát triển an toàn, nợ xấu thấp; nhóm những ngân hàng sở hữu nhiều lợi thế cạnh tranh, được hưởng lợi nếu lĩnh vực bất động sản hồi phục...

Mặc dù vậy, các chuyên gia cũng khuyến nghị nhà đầu tư thận trọng vì sóng cổ phiếu ngân hàng thường không kéo dài, cổ phiếu ngân hàng phù hợp với đầu tư trung, dài hạn.  

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Maybank Investment Bank (MSVN) cho rằng, nhà đầu tư cần nhìn vào kết quả kinh doanh quý I/2024, cũng như mục tiêu lợi nhuận, kế hoạch chia cổ tức ngân hàng năm 2024 để hành động. Bên cạnh đó, khi nhìn nhận sự phục hồi của lĩnh vực ngân hàng, cũng phải quan sát rất kỹ tình hình hồi phục của thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp. 

Đề nghị Bộ Công an, Bộ Tài chính phối hợp quản lý thị trường vàng

Ngân hàng Nhà nước đề nghị Bộ Tài chính tăng cường kiểm tra công tác sử dụng hóa đơn, chứng từ trong hoạt động kinh doanh vàng và đề nghị Bộ Công an phối hợp hạn chế tình trạng đầu cơ trục lợi, nhập lậu vàng.

NHNN vừa có công văn số 345/NHNN-QLNH gửi Bộ tài chính và công văn 10035/NHNN-QLNH gửi Bộ Công an về việc phối hợp trong công tác quản lý thị trường vàng.

Cụ thể, ngân hàng Nhà nước đề nghị Bộ Tài chính tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định đối với việc phát hành, sử dụng hóa đơn, chứng từ trong hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, đặc biệt là hóa đơn, chứng từ trong hoạt động mua, bán vàng nguyên liệu và vàng miếng đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi phát hành, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp.

Với Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước cũng đề nghị cơ quan này phối hợp hạn chế tình trạng một số doanh nghiệp lợi dụng giá vàng tăng cao để đầu cơ, trục lợi, nhập lậu vàng qua biên giới, gây xáo trộn thị trường.

“Ngân hàng Nhà nước đề nghị Bộ Công an tiếp tục phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan trong việc đấu tranh, điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật về kinh doanh vàng trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao tại Nghị định 24,” văn bản nêu rõ.

Theo NHNN, thời gian gần đây, giá vàng quốc tế biến động tăng mạnh do ảnh hưởng bởi căng thẳng địa chính trị, ngoại giao phức tạp trên thế giới. kinh tế thế giới phục hồi chậm, động thái chuẩn bị đổi chiều chính sách lãi suất USD của Fed khiến nhu cầu đầu tư vào vàng tăng cao. Trong nước, giá vàng miếng SJC tăng mạnh do ảnh hưởng bởi giá vàng quốc tế tăng và tâm lý của người dân khi thấy giá vàng quốc tế tăng liên tục.

Trước diễn biến mới của thị trường vàng, NHNN đã tích cực triển khai các giải pháp theo quy định để bình ổn thị trường vàng, chủ động xây dựng các kịch bản, phương án ứng phó với biến động của giá vàng thế giới và trong nước để sẵn sàng các biện pháp xử lý. 

Trước đó, NHNN cho biết, trong tháng 1/2024 sẽ báo cáo tổng kết Nghị định 24/2012/NĐ-CP, trong đó có đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định quản lý thị trường vàng để phù hợp với bối cảnh mới của thị trường.

Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, mục tiêu của Nghị định 24 là chống vàng hóa nền kinh tế, không ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, việc sửa Nghị định 24 là cần thiết, vì Nghị định này đã ra đời cách đây 11 năm, có vai trò lịch sử nhất định song điều kiện kinh tế - xã hội cũng đã thay đổi.

Liên quan đề xuất bỏ độc quyền vàng miếng SJC theo quy định của Nghị định 24, Phó thống đốc cho hay, dù nhiều loại vàng hay không thì mục tiêu cuối cùng là phải ổn định thị trường vàng miếng, đảm bảo quyền lợi của 100 triệu dân. Quyền lợi của nhóm doanh nghiệp kinh doanh vàng rất nhỏ, Nhà nước không bảo hộ giá cả vàng miếng, song luôn tôn trọng quyền mua bán, bảo quản, cất trữ vàng của người dân.

“Nhà nước không khuyến khích kinh doanh vàng miếng, không bảo hộ giá cả vàng miếng. Tuy nhiên, cũng không chấp nhận được sự chênh lệch giá quá lớn giữa vàng trong nước và quốc tế, giữa vàng SJC và các loại vàng miếng khác. Tất cả vấn đề này sẽ được xem xét trong sửa đổi Nghị định 24 sắp tới. Hướng sửa đổi ra sao để vừa đảm bảo quản lý, vừa đảm bảo tính thị trường thì thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai và sẽ xin ý kiến rộng rãi”, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết.   

Cuối năm 2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 1426/CĐ-TTg ngày 27/12/2023 về các giải pháp quản lý thị trường vàng. 

Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát diễn biến giá vàng thế giới và trong nước để khẩn trương thực hiện ngay các giải pháp theo quy định để bình ổn thị trường vàng.

Khẩn trương có giải pháp hiệu quả để quản lý, điều hành giá vàng miếng trong nước theo nguyên tắc thị trường, không để tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và vàng quốc tế ở mức cao như thời gian qua ảnh hưởng tiêu cực đến điều hành kinh tế vĩ mô, báo cáo kết quả thực hiện trong tháng 1/2024.

Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát chặt chẽ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng và các chủ thể khác tham gia thị trường; kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập để xử lý chủ động, tích cực, hiệu quả theo thẩm quyền và báo cáo những vấn đề vượt thẩm quyền, đề xuất cấp thẩm quyền biện pháp xử lý phù hợp, đúng quy định…

Thủ tướng cũng giao Ngân hàng Nhà nước đánh giá tổng thể, toàn diện về tình hình thị trường vàng trong nước và công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng, bao gồm cả các nội dung về sản xuất, kinh doanh vàng miếng, vàng thương hiệu SJC, vàng trang sức... Rà soát khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức..., đồng thời tổng kết thực hiện Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng để kịp thời đề xuất cấp thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công cụ quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, phát triển thị trường minh bạch, lành mạnh, hiệu quả và bền vững, hoàn thành trong tháng 1/2024.

Mặc dù giá vàng hạ nhiệt nhanh sau công điện của Thủ tướng và thông điệp sẵn sàng can thiệp thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước, song những ngày đầu năm 2024, giá vàng vẫn diễn biến rất thất thường, liên tục tăng sốc, giảm sâu trong ngày bất chấp giá vàng thế giới gần như đứng im.

Gần 60.000 tỷ đồng nợ xấu đã được đưa lên sàn giao dịch nợ

Sau hơn 2 năm hoạt động, Sàn giao dịch nợ vẫn chưa thể trở thành một “chợ” giao dịch nợ xấu sôi động.

Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) cho biết, luỹ kế từ khi thành lập đến 31/12/2023, Sàn giao dịch nợ đã thực hiện đăng ký thành viên và cấp user truy cập website cho 216 khách hàng; ký kết 21 hợp đồng nguyên tắc môi giới bán khoản nợ xấu, tài sản đảm bảo.

Hơn hai năm qua, Sàn giao dịch đã đăng tải thông tin các khoản nợ của các tổ chức tín dụng (TCTD) với tổng giá trị là 59.831 tỷ đồng; đăng thông tin tài sản đảm bảo của các TCTD trên website của Sàn giao dịch nợ với tổng giá trị là 1.829 tỷ đồng.

Tuy nhiên, kết quả xử lý nợ còn khá khiêm tốn, đến nay, Sàn mới giúp các TCTD xử lý thành công 333 khoản nợ, tài sản đảm bảo với giá trị 1.061 tỷ đồng.

VAMC cũng cho hay, năm 2023, kết quả mua nợ theo giá trị thị trường của VAMC không đạt kế hoạch NHNN giao. 

Về nguyên nhân khách quan, theo các quy định hiện hành, VAMC chỉ được đấu giá tài sản là khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua của các TCTD bao gồm khoản nợ xấu được mua theo giá trị thị trường và mua bằng trái phiếu đặc biệt dẫn tới hạn chế đối tượng đấu giá, phạm vi hoạt động đấu giá của VAMC.  

Hơn nữa, phần lớn khách hàng được VAMC mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt đã ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, không có khả năng phục hồi, không hợp tác, thậm chí liên quan đến các vụ án, đang chấp hành hình phạt ...; tài sản đảm bảo của các khoản nợ xuống cấp, thanh khoản kém...  

Năm 2024, VAMC cho biết sẽ đẩy mạnh việc tìm kiếm, khai thác danh sách các khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt, triển khai làm việc với các TCTD và đối tác, lựa chọn các khoản nợ có tính khả thi trong việc xử lý sau khi mua để thực hiện mua khoản nợ theo giá trị thị trường. Song song với đó VAMC tập trung rà soát, đánh giá thực trạng và phân loại khách hàng, khoản nợ/tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ và có phương án xử lý nợ phù hợp…

Đặc biệt, VAMC chú trọng việc xây dựng danh mục các tài sản đảm bảo là Dự án bất động sản đáp ứng các điều kiện để chào bán tới các nhà đầu tư trong và ngoài nước; Tiếp tục triển khai bán đấu giá/chào giá cạnh tranh/bán thỏa thuận các khoản nợ và tài sản đảm bảo để thu hồi nợ…

Đối với nhóm giải pháp tạo lập thị trường mua bán nợ xấu trong đó VAMC đóng vai trò là trung tâm của thị trường, VAMC thực hiện hiệu quả hoạt động mua, bán, xử lý nợ mua theo giá trị thị trường nhằm đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu; Xây dựng trung tâm dữ liệu về khoản nợ/ tài sản đảm bảo; đẩy mạnh hoạt động Sàn giao dịch nợ VAMC nhằm quản lý, khai thác thông tin về khoản nợ/ tài sản đảm bảo; Chủ động tìm kiếm và mở rộng đối tác, các nhà đầu tư để thực hiện tư vấn, môi giới mua, bán nợ xấu và tài sản đảm bảo của khoản nợ trên cơ sở danh mục nợ xấu đã được phân loại…  

Năm 2024 dự báo còn nhiều khó khăn nhất là trong hoạt động mua, bán, xử lý nợ xấ, vì vậy, lãnh đạo VAMC kiến nghị Chính phủ, NHNN và các Bộ, ngành có liên quan tăng cường nguồn lực cho VAMC về cả vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và tiếp tục quan tâm, hỗ trợ tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý TSBĐ, khoản nợ, hoàn thiện các thủ tục pháp lý cho hoạt động mua, bán và xử lý nợ của VAMC cũng như các TCTD.  

Lãnh đạo VAMC cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm mở rộng phạm vi, hoạt động đấu giá tài sản của VAMC theo hướng không chỉ đấu giá nợ xấu/ tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu VAMC mua nợ từ TPĐB, mua theo giá trị thị trường mà còn khoản nợ, tài sản đảm bảo của khoản nợ của các TCTD lựa chọn bán đấu giá qua VAMC.

Giải pháp ngăn ông chủ ngân hàng đồng thời là chủ công ty sân sau

Đã có quy định Chủ tịch HĐQT của một ngân hàng không được đồng thời là Chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT, Chủ tịch Hội đồng thành viên… của doanh nghiệp khác song thực tế vẫn có tình trạng lách quy định, từ đó “nắn” tín dụng cho sân sau.

Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi. So với các quy định hiện hành, dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) quy định rất chặt chẽ về tiêu chuẩn với người quản lý ngân hàng.

Đặc biệt, dự thảo Luật quy định rất chặt về những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ (Điều 43) nhằm giảm tình trạng sở hữu chéo, công ty sân sau, nâng cao quản trị ngân hàng.

Thực tế, Luật Các TCTD được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Chủ tịch Hội đồng quản trị của một ngân hàng không được đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) hoặc các chức danh tương đương của doanh nghiệp khác.

Tuy nhiên, theo NHNN báo cáo, trên thực tế vẫn có tình trạng việc “lựa chọn” của các lãnh đạo ngân hàng còn mang tính hình thức, lách quy định (phần lớn chỉ thôi đảm nhiệm chức vụ đứng đầu nhưng vẫn tiếp tục làm Phó chủ tịch hoặc thành viên Hội đồng quản trị).

Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vừa thông qua quy định chặt chẽ hơn về những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ.

Theo Ủy ban thường vụ Quốc hội, việc cùng đảm nhiệm chức vụ quản lý, điều hành tại TCTD có thể tác động hoặc hỗ trợ việc quyết định cấp tín dụng đối với doanh nghiệp mà họ đồng thời là người quản lý, điều hành. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định cấp tín dụng của TCTD, dẫn đến việc ưu tiên cấp tín dụng cho các doanh nghiệp “sân sau” của TCTD.

Ngoài ra, việc đồng thời cùng đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ quản lý, điều hành tại TCTD và các doanh nghiệp khác có thể ảnh hưởng phần nào đến chất lượng quản lý điều hành tại TCTD.

Do đó, quy định hạn chế việc đồng thời đảm nhiệm các chức vụ quản lý điều hành tại TCTD và các doanh nghiệp khác là cần thiết nhằm tránh việc các người quản lý, điều hành can thiệp đến hoạt động của TCTD, đưa ra những quyết định có lợi cho doanh nghiệp khác mà họ đang đồng thời quản lý, điều hành. 

Tuy nhiên, đối với thành viên độc lập của Hội đồng quản trị, Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã có sự điều chỉnh về việc không cùng đảm nhiệm chức vụ của nhân sự này nhằm giải quyết khó khăn của TCTD trong việc tìm kiếm các ứng viên là thành viên độc lập đủ điều kiện theo quy định của Luật.

Theo đó, sửa đổi theo hướng thành viên độc lập của Hội đồng quản trị của TCTD không được đồng thời đảm nhiệm một trong các chức vụ sau đây: (1) Người điều hành của TCTD đó; (2) Người quản lý, người điều hành của TCTD khác, người quản lý của nhiều hơn 02 doanh nghiệp khác; (3) Thành viên Ban kiểm soát của TCTD khác, doanh nghiệp khác.

Tương ứng với điều chỉnh quy định này, tại Điều 41 về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành chỉnh sửa quy định về tỷ lệ sở hữu trực tiếp, gián tiếp của thành viên độc lập và người có liên quan từ 01% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên (giảm từ 05% theo dự thảo trình tại Kỳ họp thứ 5) để bảo đảm tính độc lập của thành viên độc lập cũng như hạn chế trường hợp thao túng, chi phối khi điều chỉnh quy định về không cùng đảm nhiệm chức vụ đối với thành viên độc lập. 

Hơn 91% đại biểu nhất trí thông qua Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi

Sáng 18/1, với 91,25% đại biểu tán thành, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chính thức được thông qua. Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/7/2024 ngoại trừ một số quy định đặc biệt.

Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) gồm 15 chương, 210 điều. So với dự thảo công bố trước đó, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vừa được thông qua có nhiều chỉnh lý, bổ sung quan trọng.

Về hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng (tại Điều 5, Điều 113), Luật đã bổ sung quy định cấm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức. Đồng thời, giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng để phù hợp với tính chất và hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.

Về can thiệp sớm tổ chức tín dụng, Luật chỉnh lý theo hướng Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt việc can thiệp sớm. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm theo dõi, giám sát và bảo đảm thực trạng của tổ chức tín dụng đã khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm. Quy định này nhắm thống nhất với việc Ngân hàng Nhà nước có văn bản áp dụng can thiệp sớm.   

Về tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 63), Luật quy định: Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu cổ phần vượt quá 10% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.  Cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 05% vốn điều lệ trở lên của một tổ chức tín dụng khác.

Như vậy, tỷ lệ sở hữu đã bị siết giảm so với quy định hiện hành. Thảo luận tại Hội trường ngày 15/1, nhiều đại biểu cho rằng, việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần của các tổ chức tín dụng sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến các cổ đông hiện hữu và kể cả các nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư tiềm năng, nhất là khi các cổ đông này đã và dự kiến sở hữu cổ phần một cách minh bạch; việc điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo.

Lý giải cho việc giữ nguyên quy định giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, đây là một trong các biện pháp hạn chế tình trạng sở hữu chéo, thao túng, chi phối tổ chức tín dụng thông qua giúp tăng số lượng các cổ đông, tăng tính đại chúng cũng như đa dạng hóa cơ cấu cổ đông của các tổ chức tín dụng phù hợp với định hướng Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 để hạn chế việc chi phối, thâu tóm, bảo đảm tính đại chúng của tổ chức tín dụng.

Về giới hạn cấp tín dụng (Điều 136) đã đưa ra một lộ trình 5 năm trong việc giảm giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó.

Cụ thể, từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến trước ngày 1/1/2026: 14% vốn tự có đối với một khách hàng; 23% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó. Các tỷ lệ này giảm lần lượt 1% mỗi năm và trở về mức 10% vốn tự có đối với một khách hàng; 15% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó kể từ ngày 1/1/2029.    

Đây là Dự án luật có nhiều nội dung chuyên sâu, có tác động trực tiếp đến chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô. Các quy định trong dự luật được kỳ vọng sẽ giúp hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, ổn định và bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp tục phát huy vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế. 

Sửa Luật Các tổ chức tín dụng: Chính thức cấm ngân hàng bán bảo hiểm “bia kèm lạc”

Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) trình Quốc hội biểu quyết thông qua sáng nay đã bổ sung thêm việc bán bảo hiểm gắn với cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng vào hành vi bị cấm.

Cụ thể, dự thảo Luật đã bổ sung thêm khoản 4. Điều 15 như sau: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức”. 

Trước đó, phát biểu tại phiên thảo luận về dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) ngày 15/1, nhiều đại biểu lo ngại các quy định trong dự thảo thời điểm đó sẽ không ngăn chặn được tình trạng ngân hàng ép khách mua bảo hiểm.

Theo đại biểu Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang), mức hoa hồng chiết khấu cao cho đại lý bảo hiểm nhân thọ là nguyên nhân khiến tình trạng ép khách vay vốn phải mua bảo hiểm nhân thọ diễn ra tại nhiều ngân hàng thương mại.

Rất nhiều con số cho thấy, các ngân hàng được lợi lớn nhờ bán chéo sản phẩm bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng. 

Thứ nhất, kết luận thanh tra của Bộ tài chính tháng 7/2023 đối với 4 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng qua kênh ngân hàng thương mại đã cho thấy tỷ lệ huỷ hợp đồng sau năm đầu tiên của khách hàng lên tới 70% - hủy năm đầu đồng nghĩa khách hàng mất không số phí đã nộp. Chỉ tính riêng 1 công ty bảo hiểm nhân thọ bán qua 1 ngân hàng thương mại đã có số phí bảo hiểm khách hàng huỷ sau năm đầu tiên khoảng 2.000 tỷ đồng. Nhiều ngân hàng còn gợi ý khách hàng vay vốn nộp phí 2 năm đầu thì số tiền khách hàng vay vốn phải bỏ thêm còn lên đến 4-8% giá trị khoản vay.

Thứ hai, chi phí trả trước của năm đầu tiên cho hợp đồng hợp tác độc quyền mà công ty bảo hiểm trả cho ngân hàng thương mại được công khai khi ký kết chiếm tỷ lệ lớn trong thu nhập sau thuế của ngân hàng. Trong giai đoạn 2018 - 2022, thu nhập từ làm đại lý bảo hiểm nhân thọ của các ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng rất lớn trong lợi nhuận của các ngân hàng thương mại.

Với thực tiễn trên, đại biểu Thịnh cho rằng, quy định như Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi sẽ  không đảm bảo được tình trạng chèn ép khách hàng vay vốn mua bảo hiểm hoặc lợi dụng sự thiếu hiểu biết của khách hàng có tiền gửi tiết kiệm để mua sản phẩm bảo hiểm nhân thọ như thời gian gian qua sẽ chấm dứt.

“Việc bán chéo bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng thương mại dễ dàng đã kéo các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm nhân thọ bỏ qua các ranh giới nghề nghiệp, xoá bỏ uy tín được tích luỹ để bước vào vòng xoáy tìm kiếm lợi nhuận. Tôi đề nghị, nếu việc cấm bán chéo bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng thương mại không được thực hiện, thì Dự thảo Luật cần bổ sung 1 điều giao Chính phủ ban hành văn bản quy định việc kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm mà ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng làm đại lý để đảm bảo công khai, minh bạch, bảo vệ quyền của khách hàng vay vốn cũng như gửi tiết kiệm tại ngân hàng”, đại biểu Thịnh đề nghị.

Tương tự, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cũng nhấn mạnh hệ lụy và nỗi đau dai dẳng của việc các ngân hàng liên doanh, liên kết bán bảo hiểm thời gian qua. Đồng thời, ủng hộ quan điểm là không cho phép các ngân hàng liên doanh, liên kết bán bảo hiểm…

Theo các đại biểu, ngân hàng và công ty bảo hiểm liên kết với nhau để bán bảo hiểm, hưởng lợi nhuận cao, song khi khách hàng muốn đòi quyền lợi thì phía bán bảo hiểm lại gây khó dễ. Muốn nhận được tiền bảo hiểm, người dân rất vất vả, thậm chí có người còn bỏ luôn quyền lợi vì hành trình đi đòi tiền quá cực khổ. Chính vì vậy, các đại biểu cho rằng cần có quy định cụ thể hơn về bảo vệ quyền lợi khách hàng. Đồng thời, xử lý đối với các hành vi vi phạm của nhân viên các tổ chức tín dụng như việc tư vấn không đầy đủ và gây nhầm lẫn, hoặc bắt mua bảo hiểm gắn với khoản vay…  

8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2024

Tập trung xử lý ngân hàng yếu kém, đẩy mạnh chuyển đổi số, đẩy tín dụng tăng trưởng để hỗ trợ phục hồi kinh tế... là những nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2024.

Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2024.

Chỉ thị nêu rõ, thực hiện Nghị quyết số 103/2023/QH15 ngày 9/11/2023 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, các Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024 (Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 và các Nghị quyết khác), Thống đốc NHNN yêu cầu các đơn vị thuộc NHNN và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) thực hiện nghiêm túc các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2024 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.

Theo nội dung Chỉ thị, NHNN xác định mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát của ngành Ngân hàng trong năm 2024, cụ thể:

Một là, điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát mục tiêu năm 2024 bình quân khoảng 4-4,5%, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và hệ thống ngân hàng.

Hai là, điều hành tín dụng hài hòa với diễn biến kinh tế vĩ mô nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD. Điều hành tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế; nghiên cứu đổi mới công tác điều hành tăng trưởng tín dụng.

Ba là, triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, góp phần phát triển hệ thống các TCTD hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật và tiệm cận, đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Tập trung thực hiện có hiệu quả phương án xử lý các TCTD yếu kém, triển khai cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền.

Chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu mới phát sinh.

Bốn là, tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định về tổ chức, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ngành Ngân hàng. Tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, góp phần bảo đảm an ninh, kỷ luật trên thị trường tiền tệ, ngân hàng.

Năm là, thực hiện có hiệu quả Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025; Chiến lược phát triển công nghệ thông tin ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Tiếp tục triển khai các giải pháp đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, hoạt động ngân hàng số và đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động ngân hàng.

Sáu là, tăng cường kỷ cương, kỷ luật thị trường trong việc chấp hành chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN và các quy định trong hoạt động ngân hàng.

Bảy là, cải cách mạnh mẽ quy định, thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp . Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính.

Tám là, tiếp tục triển khai, giám sát có hiệu quả việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và các Chương trình, Kế hoạch, Đề án đã ban hành.

Không “phanh gấp” việc giảm giới hạn cấp tín dụng

Thay vì giảm đột ngột giới hạn cấp tín dụng đối với khách hàng như dự thảo cũ, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đưa ra một lộ trình giảm trong vòng 5 năm.

Một trong những nội dung của dự Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được cá doanh nghiệp đặc biệt quan tâm là quy định về giới hạn cấp tín dụng.

Luật các tổ chức tín dụng hiện hành quy định: Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô.

Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 11/2023 đã giảm mạnh tỷ lệ này về lần lượt 10% và 15%. Nhiều đại biểu quốc hội cho rằng, việc giảm đột ngột giới hạn cấp tín dụng khiến ngân hàng có thể cũng sẽ bị thu hẹp lượng khách hàng và khách hàng cũng sẽ bị thu hẹp về nguồn vốn được tiếp cận, có thể gây tác động bất lợi kép cho cả khách hàng và ngân hàng. Vấn đề này có thể ảnh hưởng lớn và tức thời, đó là nguồn cung vốn cung ứng cho nền kinh tế bị hạn chế hơn, trong bối cảnh nhiều khó khăn như hiện nay. Nhiều đại biểu quốc hội cũng đã đề nghị cần quy định về giới hạn cấp tín dụng theo hướng giảm giới hạn cấp tín dụng cho một khách hàng và người có liên quan theo lộ trình cụ thể, đồng thời, giao Chính phủ quy định lộ trình này.

Tuy nhiên, trong Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, lộ trình giảm giới hạn cấp tín dụng được kéo dài trong 5 năm từ khi Luật có hiệu lực đến năm 2029 nhằm bảo đảm minh bạch, rõ ràng, đồng thời tránh tác động đột ngột đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhưng vẫn hạn chế việc tập trung tín dụng vào một khách hàng và một nhóm khách hàng, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho đối tượng khách hàng khác.

Cụ thể, dự Luật quy định, tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó của ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô không được vượt quá tỷ lệ sau đây:

Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2026: 14% vốn tự có đối với một khách hàng; 23% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2026 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2027: 13% vốn tự có đối với một khách hàng; 21% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2027 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2028: 12% vốn tự có đối với một khách hàng; 19% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;

 Từ ngày 01 tháng 01 năm 2028 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2029: 11% vốn tự có đối với một khách hàng; 17% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2029: 10% vốn tự có đối với một khách hàng; 15% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó.

Ngân hàng đón làn sóng tăng vốn, cổ phiếu vua có còn hấp dẫn
Năm 2024, các ngân hàng tiếp tục được khuyến khích chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn, làm dày bộ đệm vốn. Cổ phiếu ngân hàng cũng...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư