-
Giám đốc Điều hành UNODC: Ký Công ước Hà Nội là ký vào “một tương lai an toàn hơn” -
Cần Thơ có tân Chánh Văn phòng UBND Thành phố -
Kiện toàn nhân sự Quốc hội, ông Lê Quang Mạnh làm Tổng thư ký Quốc hội -
Chùm ảnh: Lễ đón các Trưởng đoàn dự Lễ mở ký Công ước Hà Nội -
Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm 3 Bộ trưởng -
Phê chuẩn bổ nhiệm bà Phạm Thị Thanh Trà và ông Hồ Quốc Dũng làm Phó thủ tướng
Lịch sử phát triển của Việt Nam cũng như giai đoạn 40 năm Đổi mới vừa qua cho thấy, cứ mỗi khi cả dân tộc cùng thống nhất tư duy phát triển, thống nhất niềm tin để cùng quyết tâm hành động, thì việc khó đến đâu, rủi ro lớn thế nào cũng sẽ tìm được hướng đi.
Thời điểm này, kỷ nguyên của một Việt Nam thịnh vượng, năng động, ngày một vươn xa đang hội tụ. Đó là 4 nghị quyết lớn của Bộ Chính trị cùng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cùng những quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp hành động đột phá, mạnh mẽ… được nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tất cả để hiện thực hóa khát vọng cháy bỏng: viết nên kỳ tích Việt Nam.
![]() |
| Các doanh nghiệp đang có tham vọng đưa Việt Nam trở thành một trong những thủ đô của các thiết bị bay toàn cầu |
Bài 2: Lợi thế cạnh tranh mang tên thể chế
Trong một nền kinh tế mà toàn dân có cơ hội tham gia lao động, ai ai cũng sẵn sàng sáng tạo, tìm kiếm cơ hội tạo ra của cải, vật chất, thể chế sẽ là động lực tạo sức bật và sức bền cho tăng trưởng. Một cuộc cải cách thể chế sâu sắc chưa bao giờ thuận lợi như bây giờ.
Cơ hội ngàn năm
Việt Nam đang đứng trước “cơ hội ngàn năm” để trở thành trung tâm kinh tế tầm thấp - thủ phủ drone toàn cầu.
10 doanh nghiệp và các học viện, viện công nghệ đã tuyên bố như vậy khi đặt bút ký thành lập Liên minh Kinh tế tầm thấp Việt Nam (Vietnam LAE). Họ gồm các tập đoàn công nghệ hàng đầu như FPT; các start-up trong lĩnh vực xe tự lái và robot công nghiệp như PhenikaaX, trong lĩnh vực drone và UAV như Gremsy, MiSmart..., cùng các chuyên gia trong Hội tự động hóa TP.HCM, Mạng lưới UAV Việt Nam...
Kinh tế tầm thấp là hệ sinh thái hoạt động trong không phận dưới 1.000 m, gồm các hoạt động liên quan đến máy bay không người lái (UAV/drone), phương tiện bay điện cất, hạ cánh thẳng đứng (eVTOL, Air Taxi), hệ thống quản lý không phận UTM và các công nghệ hỗ trợ quan trọng. Trên thế giới, ngành này được dự báo đạt 700 tỷ USD vào năm 2035 và 1.000 tỷ USD vào năm 2040. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp đã sản xuất và xuất khẩu thiết bị gimbal camera cho UAV đến 63 quốc gia. 7 trong số 10 hãng drone hàng đầu thế giới đang dùng sản phẩm do Việt Nam làm ra.
Chính bởi vậy, các doanh nghiệp tham gia Vietnam LAE đang chia sẻ tham vọng lớn, đó là xây dựng kinh tế tầm thấp thành ngành kinh tế trọng điểm, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hàng ngàn doanh nghiệp phụ trợ, mang về hàng chục tỷ USD trong 10-15 năm tới, tạo 1 triệu việc làm chất lượng cao và khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ công nghệ toàn cầu...
Trong đó, các doanh nghiệp sẽ đầu tư R&D, chuyển giao công nghệ; hợp tác với các viện, trường để phát triển sản phẩm, nâng chuẩn kỹ năng và thương mại hóa các giải pháp. Kế hoạch cụ thể đầu tiên đã được khởi động với đề xuất TP.HCM xây dựng “đặc khu thử nghiệm drone”.
“Đây là lĩnh vực mà Việt Nam hoàn toàn có thể bứt phá”, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT sốt sắng khi nói về tham vọng của Vietnam LAE. Tuy nhiên, phần tiếp sau của câu này là “…nếu hành động kịp thời”.
Điều doanh nghiệp không thể chủ động, nhưng lại quyết định tính khả thi của “cơ hội ngàn năm”, đó là khung pháp lý cho kinh tế tầm thấp, như tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn tầm thấp, định danh thiết bị, cơ chế sandbox cho dịch vụ mới, cũng như các quy hoạch và xây dựng hạ tầng bay tầm thấp...
Tư duy “thể chế cạnh tranh”
Những bước chuyển trạng thái mang tính bước ngoặt của doanh nghiệp Việt Nam, như cách Vietnam LAE đang làm, được giới phân tích đưa ra ngay khi Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành vào tháng 5/2025.
“Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, theo nghĩa không chỉ xác định vai trò từ trước đến nay, mà là cho phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai, nghĩa là từ nay trở đi”, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương lý giải.
Theo nghĩa này, trong không gian kinh tế mở rộng, với cơ hội và cả thách thức mới từ các xu hướng phát triển, doanh nghiệp phải chủ động thay đổi, nâng cấp, thậm chí chấp nhận rủi ro lớn hơn trong đầu tư, kinh doanh, nếu không muốn bị loại khỏi cuộc chơi. Điều đáng nói, môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam đang hội tụ nhiều điều kiện hậu thuẫn cho chuyển dịch này thuận và nhanh hơn.
Thứ nhất, hệ thống giải pháp khá đồng bộ, đầy đủ, với tư duy rất mới của Nghị quyết 68-NQ/TW có thể giải quyết dứt điểm một số trở lực căn bản trong phát triển khu vực tư nhân, nhất là tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn và không thể lớn. Có thể kể tới các giải pháp hỗ trợ, như tiếp cận vốn, đất đai, nhóm giải pháp liên quan đến nguyên tắc “không hình sự hóa các quan hệ kinh tế dân sự”...
Thứ hai, hệ thống giải pháp trên đang được thực hiện với hệ tư duy hoàn toàn mới trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, được xác định trong Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, được ban hành trước Nghị quyết 68-NQ/TW vài ngày. Đó là, công tác xây dựng pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước; dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”...
Thứ ba và đặc biệt quan trọng, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong Hội nghị quán triệt Nghị quyết 66-NQ/TW: “Nghị quyết 66-NQ/TW chính là lời hiệu triệu cho một cuộc cải cách thể chế sâu sắc, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, thực chất, vì nhân dân phục vụ, tạo ra động lực bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trong thế kỷ XXI”.
Vấn đề là việc thực thi không hề dễ. Với kinh nghiệm trong nghiên cứu, thiết kế, xây dựng hệ thống pháp luật về doanh nghiệp, ông Cung thẳng thắn, đến thời điểm này, duy nhất Luật Doanh nghiệp được thiết kế theo nguyên tắc “người dân được làm những gì pháp luật không cấm”.
Nhưng tư duy này không phát huy được hiệu quả lớn trong thực tiễn, vì nhiều quy định của luật này bị “vô hiệu hóa” bởi các hàng rào điều kiện kinh doanh, quy chuẩn, tiêu chuẩn không phù hợp. Đến mức, trong đợt khảo sát, đánh giá mới đây về các quy định liên quan đến quản lý chuyên ngành, ông Cung phải thốt lên rằng, doanh nghiệp tư nhân khó lớn, thậm chí không thể lớn vì họ được làm những gì pháp luật cho phép, nhưng “theo khả năng quản lý và hiểu biết của công chức nhà nước”.
Nguyên nhân chính do hệ thống pháp luật hiện tại là hệ quả của tư duy không quản được thì cấm, nên giai đoạn vừa qua, dù được sửa đổi, bổ sung liên tục, theo hình thức một luật sửa nhiều luật, có cả nghị quyết đặc thù, nhưng nhiều điểm nghẽn chưa được gỡ dứt điểm.
Áp lực thực thi
Trong Báo cáo Đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (Phụ lục 4, Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng), thể chế phát triển được nhận diện là còn những yếu tố chưa thông thoáng, thuận lợi để huy động được tối đa các nguồn lực cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả; chưa tạo được khung khổ pháp lý toàn diện, thuận lợi để khơi thông nguồn lực trong dân, giải phóng sức sản xuất.
Tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý hơn là kiến tạo, đặc biệt với các mô hình kinh tế mới; vẫn tồn tại quan điểm “quản được đến đâu thì mở đến đó”, “không quản được thì cấm”. Một số chính sách chưa theo kịp thực tiễn; còn chồng chéo, mâu thuẫn; việc áp dụng pháp luật đôi khi thiếu thống nhất.
Phân cấp, phân quyền còn hạn chế; trách nhiệm chưa rõ; thủ tục hành chính vẫn rườm rà; dịch vụ công trực tuyến cải thiện chậm. Các quy định về kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... chậm được ban hành. Các thị trường vốn, đất đai, khoa học - công nghệ còn nhiều vướng mắc...
Phải nhắc lại, thể chế là một trong 3 đột phá chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Điều này cho thấy, cách làm truyền thống, dựa chủ yếu vào bộ máy hành chính, các cơ quan nhà nước như lâu nay không còn phù hợp trong bối cảnh hiện tại, nhất là khi Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW quy định, sẽ phải bãi bỏ nhiều văn bản pháp luật, nhiều nội dung, quy định để chấm dứt cơ chế xin - cho, chuyển quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm...
“Nền kinh tế đang cần hệ thống thể chế phục vụ yêu cầu mới. Với quan điểm này, tôi cho rằng, phải có sự chỉ đạo áp đặt từ trên xuống trong thực hiện các nghị quyết, giống như cách làm trong tinh giản bộ máy”, ông Cung khuyến nghị.
Điều ông Cung đề cập cũng là nội dung quan trọng trong Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Đó là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, công bằng, dân chủ, minh bạch, khả thi, ổn định để tạo lập nền tảng cho hệ thống quản lý, quản trị phát triển hiện đại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các lĩnh vực mới, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc; khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước...
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từng chia sẻ, muốn thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia, không chỉ cần luật tốt, mà còn phải thực thi luật tốt hơn các nước khác.
Nghị quyết của Đảng đã mở mọi giới hạn cho không gian cải cách. Công cuộc cải cách thể chế chưa bao giờ thuận lợi như bây giờ, với mục tiêu đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Giờ là lúc phải thực thi, để trả lời bằng được câu hỏi: “Làm sao để Việt Nam - một quốc gia thu nhập trung bình thấp có thể vươn lên, chiếm lĩnh không chỉ những khoảng trống, mà cả những cơ hội mới mẻ của thị trường toàn cầu?”.
- Tính đến ngày 22/9/2025, các bộ đã chủ động thực hiện cắt giảm 172 thủ tục hành chính, đơn giản hóa 718 thủ tục hành chính; cắt giảm 222 điều kiện kinh doanh.
- Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm 348 thủ tục hành chính, đơn giản hóa 1.703 thủ tục hành chính; cắt giảm 2.041 điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của 14 bộ, cơ quan ngang bộ.
- Dự kiến trong năm 2025 sẽ bãi bỏ 520 thủ tục hành chính, đơn giản hóa 2.421 thủ tục hành chính. Tổng số thủ tục hành chính dự kiến được cắt giảm, đơn giản hóa là 2.941/4.888 thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh (đạt khoảng 60,2%); dự kiến cắt giảm 2.263 điều kiện kinh doanh thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện (đạt 31%).
Nguồn: Kết quả thực hiện Nghị quyết 138/NQ-CP của Chính phủ Ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị
(Còn tiếp)
-
Chùm ảnh: Lễ đón các Trưởng đoàn dự Lễ mở ký Công ước Hà Nội -
Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm 3 Bộ trưởng -
Chủ tịch nước Lương Cường kêu gọi các thành viên sớm phê chuẩn Công ước Hà Nội -
Phê chuẩn bổ nhiệm bà Phạm Thị Thanh Trà và ông Hồ Quốc Dũng làm Phó thủ tướng -
Phân công 13 Bộ soạn thảo 39 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết -
Nghị quyết của Chính phủ về khẩn trương khắc phục hậu quả thiên tai -
Khai mạc trọng thể Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng
-
SeABank thông báo mời thầu -
Cargill kỷ niệm 30 năm hoạt động tại Việt Nam, khẳng định cam kết tiếp tục đầu tư lâu dài -
Cuộc thi “Go Healthy with Taiwan 2025” công bố 21 đội ngũ lọt vào vòng Bán kết -
C.P. Việt Nam chung tay hướng về đồng bào vùng lũ -
TCC Group và SABECO chung tay hỗ trợ các địa phương bị ảnh hưởng bởi bão Bualoi và Matmo
-
SeABank thực thi mạnh mẽ cam kết bình đẳng giới, trao quyền cho nữ

