Thứ Năm, Ngày 28 tháng 08 năm 2025,
Một số góp ý để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật trong lĩnh vực quy hoạch, xây dựng
P.V - 28/08/2025 10:07
 
Vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 206/2025/QH15 về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, trong đó, nội dung được cộng đồng doanh nghiệp quan tâm là việc tháo gỡ các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, chưa rõ ràng, tạo gánh nặng chi phí tuân thủ… liên quan đến lĩnh vực quy hoạch và xây dựng. Bài viết này xin đưa ra một số ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp về vấn đề này.

1.     Về quy định lập nhiệm vụ quy hoạch chi tiết khu chức năng

Khoản 2 Điều 16 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn quy định: Trường hợp lập quy hoạch chi tiết đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu đầu mối hạ tầng kỹ thuật và cụm công nghiệp tại khu vực đã có quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu đã được phê duyệt thì không phải thực hiện việc lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch.

Trong khi đó, các dự án đầu tư như: khu du lịch, khu văn hóa, khu nhà ở… cũng là “khu chức năng” có tính chất tương tự như khu công nghiệp. Tuy nhiên, nếu theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật này thì các khu du lịch, khu văn hóa, khu nhà ở… vẫn phải lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch là không hợp lý. Để cải cách thủ tục hành chính, cần lược bớt thủ tục xin chủ trương điều chỉnh quy hoạch đối với khu chức năng và dự án tại khu vực đã có quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu.

Vì vậy, đề xuất sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 16 của Luật Quy hoạch Đô thị và Nông thôn như sau: Trường hợp lập quy hoạch chi tiết đối với khu chức năng quy định tại Khoản 5 Điều 2 của Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn và dự án đầu tư tại khu vực đã có quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu đã được phê duyệt thì không phải thực hiện việc lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

Khi điều chỉnh quy hoạch chi tiết của khu chức năng và dự án đầu tư quy định tại Khoản này không phải xin chủ trương của cơ quan có thẩm quyền về việc điều chỉnh và  không phải thực hiện việc lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch.


2.     Về thẩm định thiết kế về phòng cháy và chữa cháy

Khoản 1 Điều 6 của Nghị định 105/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ quy định: “Đối với công trình thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định này, chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình được nộp đồng thời hồ sơ thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở của cơ quan chuyên môn về xây dựng và hồ sơ thẩm định thiết kế về phòng cháy và chữa cháy của cơ quan Công an”.

Đối với trường hợp công trình, phương tiện không bắt buộc phải thẩm định thiết kế triển khai sau thiết kế cơ sở, Bộ/Sở chuyên ngành chỉ thẩm định riêng phần thiết kế phòng cháy chữa cháy thì không đảm bảo sự đồng bộ và không cần thiết. Phần thiết kế phòng cháy chữa cháy đã được thẩm định trong thiết kế cơ sở sẽ là căn cứ để triển khai các yêu cầu phòng cháy chữa cháy vào thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công…

Vì vậy, đề xuất sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 6 của Nghị định 105/2025/NĐ-CP như sau: Đối với công trình thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định này và thuộc trường hợp phải thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở, chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình được nộp đồng thời hồ sơ thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở của cơ quan chuyên môn về xây dựng và hồ sơ thẩm định thiết kế về phòng cháy và chữa cháy của cơ quan Công an. 

Đối với công trình, phương tiện thuộc trường hợp không phải thẩm định thiết kế triển khai sau thiết kế cơ sở thì không phải thẩm định thiết kế về phòng cháy và chữa cháy của công trình, phương tiện đó.


3.     Về xây dựng công trình trong phạm vi bảo vệ, phụ cận đập, hồ

3.1.    Quy định pháp luật 

Điểm a Khoản 1 Điều 44 Luật Thủy lợi quy định: “Trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, các hoạt động sau đây phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: a) Xây dựng công trình mới”

3.2.    Bất cập:

Điều 215 Luật Đất đai cho phép thuê đất thủy lợi, nhưng Luật Thủy lợi thì chưa đề cập đến vấn đề này. Thực tế, đối với một số dự án trong lĩnh vực như du lịch, thủy điện… đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch bao gồm một phần diện tích hồ, phụ cận đập. Từ đó, nhà đầu tư xin được thuê mặt nước hồ và đất phụ cận đập nêu trên để thực hiện dự án đầu tư nhưng địa phương chưa giải quyết vì pháp luật thủy lợi chưa quy định rõ ràng về việc cho thuê “mặt nước hồ” và “đất phụ cận đập”.

Mặt khác, Luật Thủy lợi cho phép xây dựng công trình mới trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi với điều kiện “phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Việc phải làm thêm thủ tục xin cấp “giấy phép” để xây dựng công trình trong trường hợp này là không cần thiết. Vì các dự án đầu tư đều đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, phê duyệt quy hoạch chi tiết, thiết kế cơ sở… trong đó bao gồm nội dung về xây dựng công trình của dự án.

3.3.    Kiến nghị:

(1)    Sửa đổi, bổ sung điểm a Khoản 1 Điều 44 như sau:

“1. Trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, các hoạt động sau đây phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

a) Xây dựng công trình mới;

Đối với dự án đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết thì quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 đồng thời là giấy phép cho xây dựng công trình mới.”

(2)    Bổ sung khoản mới vào Điều 44 Luật Thủy lợi 2017 như sau: Việc cho thuê đất có mặt nước là hồ thủy lợi, đất trong phạm vi bảo vệ và phạm vi phụ cận đập, hồ chứa nước thuộc công trình thủy lợi để thực hiện dự án đầu tư được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai.

4.     Về giá hợp đồng xây dựng trọn gói 

4.1.    Quy định pháp luật: 

Khoản 3 Điều 15 của Nghị định 37/2015/NĐ-CP hướng dẫn về hợp đồng xây dựng quy định: “Giá hợp đồng trọn gói là giá hợp đồng không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng đối với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp bất khả kháng và thay đổi phạm vi công việc phải thực hiện”

4.2.    Bất cập:

Trên thực tế trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, cơ quan chức năng yêu cầu điều chỉnh giảm giá trị hợp đồng trọn gói khi công trình đã hoàn thành thi công là không hợp lý. Trong khi đó, Quyết định số 47/QĐ-KTNN của Kiểm toán nhà nước quy định về kiểm toán đối với gói thầu theo hình thức “Hợp đồng trọn gói” như sau: “Giá trị quyết toán đúng bằng giá trọn gói của hợp đồng đã ký, không chiết tính lại khối lượng cũng như đơn giá chi tiết đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quyết định trúng thầu.”

4.3.    Kiến nghị: 

Đề nghị sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 15 của Nghị định 37/2015/NĐ-CP như sau: “Giá hợp đồng trọn gói là giá hợp đồng không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng đối với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp bất khả kháng và do thay đổi phạm vi công việc phải thực hiện.

Giá hợp đồng trọn gói của hợp đồng thiết kế, mua sắm và xây dựng (viết tắt là EPC) là giá không thay đổi  trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng đối với khối lượng các công việc thuộc phạm vi hợp đồng đã ký kết, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc do thay đổi phạm vi công việc phải thực hiện.  Giá của từng công việc như thiết kế, mua sắm, xây dựng trong hợp đồng EPC do nhà thầu EPC được quyền tự phân bổ trong tổng giá trị trọn gói. Giá trị quyết toán đúng bằng giá trọn gói của hợp đồng đã ký, không chiết tính lại khối lượng cũng như đơn giá chi tiết đã được thỏa thuận trong hợp đồng”.

Xử lý dứt điểm các vướng mắc, khó khăn cho các dự án tồn đọng kéo dài
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình vừa ký Công điện số 138/CĐ-TTg ngày 20/8/2025 về tập trung thực hiện có hiệu quả các...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư