Thứ Ba, Ngày 29 tháng 07 năm 2025,
Mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số: Cần xác lập mô hình tăng trưởng mới
Mạnh Bôn - 29/07/2025 08:34
 
Nhìn vào các nền kinh tế phát triển thành công trong khu vực từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây, TS. Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới cho rằng, việc Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số là tất yếu. Theo đó, cần xác lập mô hình tăng trưởng mới, bởi nếu không tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài, thì Việt Nam khó có thể bứt phá.

Từ sự thành công của nền kinh tế Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) Singapore và Trung Quốc, theo ông, Việt Nam rút ra được bài học gì để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới?

Mỗi nền kinh tế có đặc trưng riêng, nhưng các nền kinh tế kể trên đều có xuất phát điểm rất thấp và sau khi thực hiện cải cách triệt để, lựa chọn đúng hướng đi, đầu tư đúng trọng tâm, trọng điểm đã bước vào giai đoạn “bùng nổ”, GDP tăng trưởng trên 10% trong thời gian dài, ít nhất là 5 năm liên tục. Sau giai đoạn tăng trưởng thần tốc, hầu hết các nền kinh tế này được “đề danh” vào danh sách có thu nhập cao.

TS. Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới

Riêng Trung Quốc, do có những đặc điểm riêng, nên sau thời gian tăng trưởng cao ở mức 2 con số, dù chưa được xếp vào nước có thu nhập cao, nhưng cũng chạm mốc này. Không chỉ là nền kinh tế khổng lồ, đứng thứ hai thế giới, mà trong nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghệ, trí tuệ nhân tạo, xây dựng cầu đường, tàu cao tốc, công nghiệp điện tử, bán dẫn..., Trung Quốc đã trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhiều nước Âu - Mỹ, vốn đi trước hàng trăm năm.

Bài học rút ra là, nếu Việt Nam muốn vượt qua “bẫy” thu nhập trung bình, trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu đã đặt ra, không còn cách nào khác là ngay trong giai đoạn 5 năm tới, tăng trưởng GDP phải đạt trên 10%. Đây là điều kiện tiên quyết để đạt được khát vọng này.

So với các nền kinh tế kể trên, khi bắt đầu tăng tốc phát triển, Việt Nam có lợi thế gì và khác biệt gì, thưa ông?

Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu tăng tốc với rất nhiều lợi thế: quy mô nền kinh tế đã đủ lớn, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, trình độ phát triển đã tương đối khá, năng suất lao động tăng liên tục, cơ cấu nền kinh tế đang có sự chuyển biến tích cực... và đặc biệt là sự ổn định an ninh, chính trị. Nhưng nhìn vào sự phát triển của các “con rồng châu Á”, chúng ta cũng có nhiều bài học quý giá.

Mô hình kinh tế của Nhật Bản và Đài Loan (Trung Quốc) khi bắt đầu tăng tốc và cho đến bây giờ vẫn hướng vào xuất khẩu, dựa vào công nghệ cao (điện tử, chip bán dẫn), công nghiệp chế biến, chế tạo; đầu tư mạnh cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái phát triển; tập trung vào đầu tư công (trong giai đoạn đầu); hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hàn Quốc cũng tương tự, nhưng chú trọng phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân (chaebol). Trung Quốc cũng đi theo con đường này, bên cạnh việc hỗ trợ hữu hiệu doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp tư nhân lớn, đồng thời tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước. Con đường phát triển của Singapore cũng vậy. Cùng với việc giữ vai trò của doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ Singapore tập trung thu hút doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp nước ngoài lớn hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.

Dù mỗi nền kinh tế có hoàn cảnh khác nhau, nhưng Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore, Nhật Bản và Trung Quốc đều đi chung một mô hình. Ngoài ra, họ đều tập trung đầu tư cho giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng lao động; khoa học - công nghệ.

Mô hình tăng trưởng của Việt Nam từ khi Đổi mới dựa chủ yếu vào xuất khẩu, độ mở thương mại thuộc hàng lớn nhất thế giới; tập trung vào vốn đầu tư công; được dẫn dắt bởi công nghiệp chế biến, chế tạo; hoạt động xuất - nhập khẩu chủ yếu do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dẫn dắt.

Giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu, nên chất lượng nguồn nhân lực vẫn là điểm nghẽn của sự phát triển. Đầu tư cho khoa học - công nghệ còn hạn chế so với các nền kinh tế kể trên, khiến năng suất lao động vốn xuất phát điểm thấp, lại tăng trưởng không cao.

Những thành quả mà nền kinh tế đã gặt hái được sẽ là nền tảng để Việt Nam tăng tốc phát triển trong giai đoạn tới, thưa ông?

Với việc tập trung thúc đẩy đầu tư công, đẩy mạnh xuất khẩu; khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân, liên tục tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; tập trung thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được kết quả rất đáng tự hào.

Kể từ khi mở cửa, thực hiện công cuộc Đổi mới (năm 1986), tuy chưa tăng trưởng 10%/năm, nhưng Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Sau những năm đầu Đổi mới, do quy mô nền kinh tế còn nhỏ, trong giai đoạn 2001 - 2015, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình mỗi 5 năm giảm dần. Nhưng rất mừng là, sau hàng loạt đổi mới, đặc biệt là đơn giản hóa, cắt bỏ nhiều thủ tục hành chính, lành mạnh hóa môi trường đầu tư - kinh doanh, kể từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP tăng dần.

“Liều thuốc thử” cho nền kinh tế Việt Nam là giai đoạn đại dịch Covid-19 bùng phát và hậu đại dịch. Khi nhiều nước phải đối phó với lạm phát và suy giảm, thì nước ta vẫn đạt được mức tăng trưởng cao, lạm phát được kiểm soát. Điều này đã thể hiện sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam.

Đặc biệt, hàng loạt nghị quyết, cơ chế, chính sách quan trọng vừa được ban hành và sắp được ban hành chính là “trụ cột” quan trọng để Việt Nam bứt phá, tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới. Ông có thể phân tích rõ hơn?

Những thành tựu mà chúng ta đã gặt hái được rất đáng tự hào. Song, nếu chỉ tăng trưởng ở mức 6 - 7%/năm, thì rất khó “chạm tay” vào ngưỡng thu nhập trung bình cao, thậm chí khó thoát khỏi “bẫy” thu nhập trung bình.

Từ thực tiễn phát triển của đất nước, kinh nghiệm của các nền kinh tế trên thế giới và khu vực, vừa qua, Đảng đã ban hành hàng loạt chính sách quan trọng về đổi mới, cải cách, tạo thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới. Đó là các chính sách về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57/NQ-TW); hội nhập quốc tế trong tình hình mới (Nghị quyết số 59/NQ-TW); đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66/NQ-TW) và phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68/NQ-TW). Sắp tới, Trung ương sẽ ban hành thêm nhiều nghị quyết mang tính chiến lược, đột phá, trước mắt, có thể là nghị quyết về doanh nghiệp nhà nước.

Chúng ta có khát vọng, có quyết tâm, thực lực, có nhiều bài học kinh nghiệm, đã có những bước đi, định hướng rõ ràng, khoa học, phù hợp với thực tiễn. Nhưng muốn phát triển, cần có nguồn lực về vốn. Để tăng trưởng 2 con số, thì tín dụng ngân hàng phải tăng trưởng ít nhất 20%, với lượng tiền bơm ra thị trường khổng lồ, tạo áp lực rất lớn lên lạm phát. Nếu không kiểm soát được lạm phát, thì kéo theo nhiều hệ lụy.

Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã và đang nỗ lực nâng hạng thị trường chứng khoán, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động nguồn lực trên thị trường vốn, giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát.

Tập trung 10 nhiệm vụ trọng tâm để hoàn thành cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025
Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tập trung thực hiện 10 nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu,...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư