Thứ Sáu, Ngày 01 tháng 08 năm 2025,
Tiêm phòng thủy đậu để tránh biến chứng nguy hiểm sức khỏe
D.Ngân - 31/07/2025 16:28
 
Nam bệnh nhân 30 tuổi mắc thủy đậu nhập viện trong tình trạng nguy kịch, dù được cứu chữa tích cực nhưng gặp nhiều biến chứng nặng nề.

Bệnh nhân nam, 30 tuổi, vào viện trong tình trạng nguy kịch, tiên lượng xấu do biến chứng thủy đậu nặng nề. Bệnh nhân có tiền sử hội chứng thận hư 7 năm, đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, nhưng không có biện pháp phòng ngừa khi tiếp xúc trực tiếp với người mắc bệnh. Biện pháp đơn giản nhất là tiêm phòng vắc-xin, bệnh nhân cũng chưa từng thực hiện.

Tiêm phòng vắc-xin là biện pháp hiệu quả để phòng chống thủy đậu.

Dù đã được điều trị tích cực bằng thuốc kháng virus và các biện pháp lọc máu hiện đại, nhưng tình trạng suy gan tối cấp, suy đa tạng, rối loạn đông máu nghiêm trọng của bệnh nhân không được cải thiện.

Nhiều người vẫn lầm tưởng thủy đậu là bệnh nhẹ, chỉ gây phát ban ngoài da. Nhưng thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Varicella-zoster gây ra. Bệnh lây lan rất nhanh qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp.

Nói thêm về bệnh thủy đậu, theo chuyên gia đây, các biểu hiện của thủy đậu bao gồm sốt, nhức mỏi, chán ăn, đau đầu, đau cơ, kèm với nổi ban đỏ phỏng nước ở da và niêm mạc (miệng, mắt, tiết niệu,…). Phỏng nước thường mọc ở vùng đầu mặt và thân mình trước, sau đó lan dần ra toàn thân.

Thủy đậu lây trực tiếp từ người sang người thông qua các giọt bắn đường hô hấp (nước bọt, dịch tiết mũi) khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi, hoặc khi nói chuyện.

Ngoài ra, bệnh có thể lây thông qua tiếp xúc trực tiếp với dịch phỏng nước thủy đậu, hoặc gián tiếp thông qua cầm nắm các vật dụng có dính chất tiết phỏng nước.

Bệnh thường diễn tiến lành tính và bệnh nhân thường hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên, nhiễm thủy đậu ở trẻ nhũ nhi, phụ nữ mang thai, người suy giảm miễn dịch, hoặc đang dùng thuốc ức chế miễn dịch có nguy cơ diễn tiến nặng, biến chứng.

Các biến chứng nặng như viêm phổi nặng, viêm não- màng não, viêm khớp... có thể dẫn đến tử vong. Riêng phụ nữ mang thai nếu nhiễm thủy đậu có thể gia tăng tần suất sảy thai, đẻ non và đặt biệt là dị tật cho thai nhi.

Khi có các triệu chứng bệnh thủy đậu, người bệnh cần đến khám tại cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn và điều trị phù hợp. Đa số các trường hợp thủy đậu có thể được theo dõi và điều trị tại nhà.

Tuy nhiên, nếu bệnh nhân thuộc nhóm cơ địa đặc biệt (trẻ sơ sinh, người suy giảm miễn dịch) hoặc có biến chứng thủy đậu, thì sẽ được nhập viện để theo dõi sát và điều trị tích cực.

Bác sỹ đặc biệt lưu ý, khi bị thủy đậu, người bệnh không nên tự ý sử dụng các thuốc không rõ nguồn gốc, nhất là các thuốc có chứa thành phần corticosteroid, làm tăng nguy cơ diễn biến nặng.

Bác sỹ Nguyễn Tuấn Hải, hệ thống tiêm chủng Safpo/potec cho hay, có bằng chứng cho thấy vắc-xin giúp ngăn ngừa hoặc làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh nếu được tiêm trong vòng 3-5 ngày sau khi phơi nhiễm. Đặc biệt, mức độ hiệu quả của vắc-xin có thể đạt được 70-100% nếu tiêm trong vòng 72 giờ.

Bác sỹ Tuấn Hải khuyến cáo, trẻ nên được tiêm phòng để tạo sự miễn dịch chủ động đối với bệnh thủy đậu. Để giảm nguy cơ mắc bệnh, bạn không nên tiếp xúc gần với người chăm sóc hoặc người đang mắc bệnh thủy đậu. Nếu có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh này, tốt nhất nên đến cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán sớm.

Khi trẻ mắc bệnh thủy đậu, phụ huynh cần lưu ý ngoài việc hạ sốt và uống thuốc theo đơn bác sỹ, chăm sóc các nốt tổn thương da rất quan trọng. Nếu tổn thương da không chăm sóc cẩn thận, bị nhiễm trùng, vết sẹo sau này sẽ rất xấu và có thể bội nhiễm, gây nhiễm trùng các cơ quan khác.

Người bệnh cần giữ sạch sẽ các tổn thương da bóng nước, có thể sử dụng thuốc sát trùng nếu bội nhiễm; tuyệt đối không bôi loại thuốc không rõ nguồn gốc lên các vết bóng nước. Bệnh thủy đậu không hạn chế tắm rửa, ngược lại, càng vệ sinh cơ thể sạch sẽ càng tốt.

Về dinh dưỡng, người bị thủy đậu cần ăn uống hợp lý, đầy đủ các chất dinh dưỡng phù hợp với lứa tuổi, uống nhiều nước. Trong quá trình chăm sóc, nếu có sốt cao liên tục không hạ được kèm theo các dấu hiệu thần kinh như li bì, khó đánh thức, nôn, co giật, khó thở… người bệnh cần được đưa đến cơ sở y tế kịp thời.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư