Thứ Sáu, Ngày 26 tháng 12 năm 2025,
Dân số Việt Nam bước vào thời kỳ già hóa nhanh
D.Ngân - 26/12/2025 11:45
 
Theo dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074 do Cục Thống kê công bố mới đây, đến năm 2049, Việt Nam được dự báo sẽ thiếu khoảng 1,3 triệu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn, kéo theo nhiều hệ lụy xã hội.

Theo báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074” do Cục Thống kê công bố mới đây, tốc độ tăng dân số của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần, thời kỳ dân số vàng sẽ khép lại vào năm 2036. Đáng chú ý, đến năm 2049, Việt Nam được dự báo sẽ thiếu khoảng 1,3 triệu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn, kéo theo nhiều hệ lụy xã hội.

Theo Cục Thống kê, dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng sẽ giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án mức sinh trung bình, trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm, ổn định hoặc suy giảm.

Báo cáo được xây dựng dựa trên kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, đồng thời dự báo quy mô dân số của cả nước, khu vực thành thị, nông thôn, 6 vùng kinh tế - xã hội và 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong giai đoạn 2024-2074.

Theo Cục Thống kê, dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng sẽ giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án mức sinh trung bình, trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm, ổn định hoặc suy giảm.

Trong 50 năm tới, với ba kịch bản mức sinh gồm mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), mức sinh trung bình (1,85 con/phụ nữ) và mức sinh cao (2,01 con/phụ nữ), dân số Việt Nam dự kiến tăng lần lượt 2,5%, 12,7% và 17%, đạt quy mô tương ứng 103,9 triệu; 114,2 triệu và 118,5 triệu người vào năm 2074.

Cụ thể, theo phương án trung bình, giai đoạn 2024-2029, tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm đạt 0,66%. Sau đó, tốc độ tăng giảm dần và đến năm 2060 sẽ chạm mức 0%. Từ năm 2061 trở đi, dân số bắt đầu giảm.

Nếu mức sinh giảm theo phương án thấp, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng dân số âm sớm hơn, ngay từ năm 2051, tức sớm hơn khoảng 10 năm so với phương án trung bình.

Đáng lo ngại, mức giảm dân số diễn ra nhanh và ngày càng mạnh: Giai đoạn 2049-2054, dân số giảm bình quân 0,05% mỗi năm; đến giai đoạn 2069-2074, mức giảm lên tới 0,44% mỗi năm, tương đương khoảng 461.000 người/năm.

Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đang nỗ lực xây dựng các chính sách nhằm duy trì mức sinh thay thế. Theo kịch bản mức sinh cao, dân số Việt Nam vẫn tăng nhẹ đến năm 2074, với mức tăng bình quân 0,05% mỗi năm trong giai đoạn 2069-2074, tương đương khoảng 58 nghìn người/năm.

Kết quả dự báo cho thấy tỷ số giới tính chung của dân số Việt Nam trong những năm tới vẫn duy trì ở mức tương đối cân bằng. Đến năm 2029, cả ba kịch bản đều dự báo tỷ số giới tính đạt khoảng 99,8 nam trên 100 nữ. Tuy nhiên, về dài hạn, tỷ lệ nữ trong dân số có xu hướng nhỉnh hơn nam.

Dù vậy, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, xuất hiện từ khoảng năm 2005 đã và đang để lại những hệ lụy rõ nét. Điều tra dân số giữa kỳ năm 2024 cho thấy số nam giới trong độ tuổi kết hôn hiện nhiều hơn nữ giới cùng nhóm tuổi khoảng 415,2 nghìn người.

Theo kịch bản dân số trung bình, đến năm 2029, cứ 100 nam giới trong độ tuổi kết hôn (20-39 tuổi) thì có hơn 3 người không tìm được phụ nữ cùng nhóm tuổi. Đến năm 2034, số nam giới dư thừa trong độ tuổi kết hôn tăng lên 711,7 nghìn người, tương đương 4,9% dân số nam từ 20-39 tuổi.

Tình trạng này tiếp tục gia tăng và đạt đỉnh vào năm 2049, khi Việt Nam được dự báo thiếu khoảng 1,3 triệu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn, tương ứng 8,7% nam giới cùng độ tuổi.

Sau thời điểm này, tình trạng dư thừa nam giới có xu hướng giảm dần do giả định tỷ số giới tính khi sinh từng bước trở lại cân bằng, song đến năm 2074 vẫn còn khoảng 829.000 nam giới trong độ tuổi kết hôn nhiều hơn nữ giới.

Theo các chuyên gia, sự thiếu hụt phụ nữ trong độ tuổi kết hôn có thể làm gia tăng tính dễ tổn thương của một bộ phận phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là nguy cơ bị bạo lực, bóc lột tình dục và buôn bán người, trong bối cảnh cạnh tranh tìm kiếm bạn đời của nam giới ngày càng gay gắt. Đây là vấn đề cần được quan tâm đặc biệt trong hoạch định chính sách dân số, giới và an sinh xã hội.

Báo cáo cũng cho biết thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam, giai đoạn cứ hai người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) “gánh” một người phụ thuộc sẽ kết thúc vào năm 2036. Sau mốc này, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số già và tiến tới dân số siêu già, với sự thu hẹp nhanh của các nhóm tuổi trẻ và trung niên, trong khi nhóm dân số cao tuổi gia tăng mạnh.

Cùng với đó, di cư nội địa tiếp tục là yếu tố quan trọng làm thay đổi phân bố dân cư giữa các vùng, phản ánh sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng thu hút, sử dụng lao động của từng địa phương.

Trước thực trạng mức sinh tại Việt Nam đang giảm nhanh và có nguy cơ xuống thấp kéo dài, Bộ Y tế kêu gọi các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sinh đủ hai con nhằm bảo đảm quy mô dân số hợp lý, duy trì nguồn nhân lực và phát triển bền vững đất nước trong những thập niên tới.

Một trong những đề xuất đáng chú ý là chính sách hỗ trợ nhà ở cho các gia đình sinh đủ hai con. Theo đó, Bộ Y tế kiến nghị bổ sung quy định phụ nữ sinh đủ hai con được mua nhà ở xã hội vào Luật Nhà ở. Việc xét điều kiện mua nhà ở xã hội vẫn căn cứ theo các tiêu chí do Bộ Xây dựng ban hành, đồng thời gắn với chính sách dân số nhằm khuyến khích sinh đủ hai con ở khu vực đô thị.

Bên cạnh các chính sách ở cấp Trung ương, nhiều địa phương đã chủ động ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân về công tác dân số trong tình hình mới.

Các địa phương đang triển khai đồng thời các giải pháp hỗ trợ dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích sinh đủ hai con ở vùng mức sinh thấp, đồng thời tiếp tục kiểm soát, giảm sinh con thứ ba ở những vùng có mức sinh cao.

Tại các địa bàn có mức sinh thấp, nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực đã và đang được triển khai, như hỗ trợ tiền mặt, hiện vật hoặc chi phí y tế một lần cho phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi.

Các chính sách này được kết hợp với việc triển khai các mô hình tư vấn tiền hôn nhân, khám sức khỏe trước hôn nhân, hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho nam giới.

Sau quá trình sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính, một số tỉnh, thành phố đang tiếp tục rà soát, tham mưu ban hành nghị quyết mới của hội đồng nhân dân nhằm thống nhất chính sách, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn và khả năng cân đối ngân sách địa phương.

Theo Cục trưởng Cục Dân số Lê Thanh Dũng, để nâng mức sinh trong tương lai, điều quan trọng là phải xây dựng được một hệ thống chính sách đồng bộ, lâu dài, gắn chặt giữa phát triển kinh tế - xã hội với công tác dân số. Trong đó, sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự đồng thuận, tham gia của toàn xã hội giữ vai trò then chốt.

Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, Bộ Y tế sẽ tăng cường truyền thông, định hướng xã hội về giá trị của gia đình và sinh đủ hai con.

Dự kiến trong thời gian tới, ngành dân số sẽ triển khai các hoạt động vận động xã hội với thông điệp “Yêu nước là sinh đủ hai con”, nhằm góp phần lấp khoảng trống mức sinh thấp đang ở mức báo động hiện nay, hướng tới một cơ cấu dân số hợp lý, bền vững cho tương lai.

Được biết, Luật Dân số 2025 vừa được Quốc hội thông qua có nhiều nội dung quan trọng, trong đó có nội dung chuyển từ tư duy kế hoạch hóa gia đình sang bảo đảm quyền sinh sản.

Theo đó, thay vì khuyến nghị mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh một đến hai con như trước đây, Luật trao quyền cho mỗi cá nhân, cặp vợ chồng tự quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh trên cơ sở phù hợp với sức khỏe, điều kiện kinh tế và khả năng nuôi dạy con.

Cách tiếp cận này không chỉ bảo đảm quyền con người mà còn nhằm tháo gỡ rào cản tâm lý trong bối cảnh mức sinh tại nhiều địa phương đang giảm sâu và có nguy cơ tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn.

Song song với việc trao quyền sinh con, Luật Dân số 2025 đưa ra các chính sách khuyến khích sinh đủ hai con bằng những hỗ trợ cụ thể, thiết thực.

Nổi bật là quy định tăng thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ sinh con thứ hai lên 7 tháng, tăng thêm một tháng so với hiện hành; đồng thời, người chồng được nghỉ 10 ngày làm việc khi vợ sinh con thứ hai để cùng chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia đình.

Đây được xem là bước tiến trong chính sách an sinh, góp phần giảm áp lực cho phụ nữ và tạo điều kiện để các gia đình yên tâm sinh con.

Không dừng lại ở đó, Luật còn mở rộng hỗ trợ kinh tế - xã hội cho các gia đình sinh đủ hai con. Theo quy định mới, phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi, phụ nữ sinh con tại các địa phương có mức sinh thấp hoặc thuộc dân tộc thiểu số rất ít người sẽ được hỗ trợ tài chính.

Đặc biệt, các gia đình có từ hai con trở lên được ưu tiên mua, thuê mua hoặc thuê nhà ở xã hội, qua đó giúp các cặp vợ chồng trẻ sớm ổn định cuộc sống, giảm bớt gánh nặng chi phí nhà ở.

Một điểm mới khác của Luật Dân số 2025 là siết chặt các biện pháp nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Luật nghiêm cấm mọi hành vi lựa chọn giới tính thai nhi và quy định rõ chế tài đối với người hành nghề khám, chữa bệnh thông báo hoặc tiết lộ giới tính thai nhi để phá thai, với hình thức đình chỉ hành nghề theo quy định pháp luật.

Đồng thời, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ được cơ quan thống kê trung ương công bố định kỳ hằng năm, tạo cơ sở để Chính phủ và chính quyền địa phương xây dựng các biện pháp can thiệp phù hợp, hiệu quả hơn.

Đáng chú ý, Luật Dân số 2025 lần đầu tiên đặt già hóa dân số là một nội dung trọng tâm trong chính sách dân số quốc gia. Luật quy định nhiều giải pháp mang tính dài hạn như phát triển mạng lưới bệnh viện lão khoa, chuyên khoa lão trong các bệnh viện đa khoa; mở rộng các mô hình chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng; phát triển bảo hiểm chăm sóc dài hạn; đồng thời xây dựng chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực lão khoa.

Cùng với đó, Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp tham gia cung cấp hàng hóa, dịch vụ dành cho người cao tuổi và hỗ trợ người cao tuổi tiếp tục tham gia lao động, phát triển kinh tế, thích ứng với chuyển đổi số.

Gia tăng áp lực y tế trước xu hướng già hóa dân số
Nhóm người cao tuổi hiện chiếm gần 13% tổng dân số nước ta và tỷ lệ này có xu hướng tăng. Trong khi đó, dịch vụ y tế chăm sóc cho người cao...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư