Thứ Bảy, Ngày 15 tháng 11 năm 2025,
Giải phóng động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế trong kỷ nguyên số
Khi dòng vốn được khơi thông, hạ tầng trí tuệ nhân tạo (AI) được hoàn thiện và khung pháp lý đủ linh hoạt để khuyến khích đổi mới, hệ sinh thái công nghệ Việt Nam sẽ thực sự cất cánh, trở thành động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế trong kỷ nguyên số.
Hạ tầng công nghệ mà VNG phát triển cho phép xây dựng, thử nghiệm và triển khai các giải pháp trong nhiều ngành kinh tế khác nhau. Ảnh: Đ.T

Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng là ‘bước ngoặt quan trọng’

Cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ Việt Nam, trong đó có VNG, rất vui mừng khi đọc, nghiên cứu, được góp ý cho Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

Chúng tôi nhận thức rằng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị trọng đại, có ý nghĩa quyết định với tương lai phát triển của Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Văn kiện này có tính chất định hình tư duy chiến lược, tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI.

Tôi và nhiều đồng nghiệp đều tin rằng, ngành công nghệ Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt quan trọng. Những năm gần đây, Việt Nam đang thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc xây dựng một nền kinh tế dựa trên tri thức và công nghệ. Các Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 57-NQ/TW về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được ban hành gần đây đều thể hiện rõ tầm nhìn của Việt Nam là coi công nghệ là động lực then chốt cho tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Điểm mới quan trọng mà cộng đồng doanh nghiệp công nghệ Việt Nam quan tâm là Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng đã đề ra mục tiêu “phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên”. Đồng thời, Văn kiện cũng chỉ rõ: “Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính”.

Việc xác lập mô hình tăng trưởng mới giai đoạn 2026 - 2030 với mục tiêu GDP bình quân 10%/năm không chỉ là khát vọng, mà còn là thách thức để hoán chuyển thành cơ hội phát triển. Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số, các động cơ tăng trưởng, gồm đất đai, tài nguyên, lao động, xuất khẩu, thị trường trong nước, đầu tư... và Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), phải được huy động đồng bộ dưới khung đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.

Điểm mới so với các giai đoạn trước là, trên nền tảng phát triển hiện nay, nhất là cuối nhiệm kỳ Đại hội XIII, đất nước có đủ dư địa để dự kiến đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số trong nhiệm kỳ tới. Đây là một trong những điểm mới của Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng trong Báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng mà Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã chỉ rõ.

Rõ ràng, đây là một định hướng đúng đắn và đầy tính thời điểm, bởi trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu và tự động hóa, công nghệ không chỉ là một ngành kinh tế, mà đã trở thành hạ tầng của mọi ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, để hiện thực hóa những mục tiêu đầy tham vọng về tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm, hay đến năm 2030 kinh tế số chiếm 30% GDP và Việt Nam nằm trong top 3 ASEAN về năng lực công nghệ, thì Việt Nam cần nhiều hơn các ưu đãi chính sách.

Cần xây dựng một hạ tầng tài chính hiện đại

Các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước gần đây đã bước đầu hình thành nền tảng cho một hệ sinh thái công nghệ có khả năng tự vận hành, nhưng để hệ sinh thái đó phát triển bền vững, yếu tố còn thiếu chính là một hạ tầng tài chính hiện đại, giúp dòng vốn luân chuyển liên tục và đa tầng, cùng cơ chế tài chính phù hợp để nuôi dưỡng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo ở mọi giai đoạn phát triển.

Tôi muốn chia sẻ rõ hơn về quan điểm này. Trong lĩnh vực công nghệ, khẩu vị rủi ro của nhà đầu tư rất đa dạng. Ở các nền kinh tế phát triển, thị trường vốn đóng vai trò xương sống của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, vì đảm bảo hình thành một chu trình tái đầu tư liên tục.

Các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước gần đây đã bước đầu hình thành nền tảng cho một hệ sinh thái công nghệ có khả năng tự vận hành, nhưng để hệ sinh thái đó phát triển bền vững, yếu tố còn thiếu chính là một hạ tầng tài chính hiện đại giúp dòng vốn luân chuyển liên tục và đa tầng, cùng cơ chế tài chính phù hợp để nuôi dưỡng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo ở mọi giai đoạn phát triển.

Chu trình trên bao gồm: vốn đầu tư mạo hiểm (venture capital) đóng vai trò kích hoạt những ý tưởng mới, các mô hình còn trong giai đoạn thử nghiệm hoặc chưa có lợi nhuận; giai đoạn tiếp theo là vốn đầu tư tăng trưởng (growth capital), giúp các công ty đã chứng minh được mô hình kinh doanh mở rộng quy mô, thị trường và hạ tầng; sau cùng, thị trường vốn công khai (public capital market) thông qua bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) giúp tăng tính minh bạch và năng lực quản trị doanh nghiệp, cho phép tiếp cận nguồn vốn từ nhiều nhóm nhà đầu tư khác nhau, kể cả khi công ty chưa có lợi nhuận, nhưng có lộ trình tăng trưởng rõ ràng.

Một thị trường vốn vận hành hiệu quả sẽ tạo ra chu trình tái đầu tư liên tục: nhà đầu tư mạo hiểm thoái vốn qua IPO và tái đầu tư vào start-up mới; các nhà đầu tư tư nhân có thanh khoản nhờ niêm yết; nhà đầu tư công khai được tiếp cận các cơ hội tăng trưởng; còn hệ sinh thái công nghệ có thêm nguồn vốn để nuôi dưỡng thế hệ start-up tiếp theo. Đây là chu trình thường bắt gặp ở các thị trường công nghệ phát triển.

Một lợi ích quan trọng của mô hình này là doanh nghiệp có thể duy trì đầu tư dài hạn cho nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời vẫn còn nguồn lực để mở rộng các mảng kinh doanh khác. Nguồn vốn cho R&D khi đó không hoàn toàn phụ thuộc vào vốn tư nhân, mà được đa dạng hóa, tiếp cận từ nhiều nhóm nhà đầu tư với mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Điều này giúp cân bằng giữa tăng trưởng ngắn hạn và đầu tư dài hạn - yếu tố sống còn đối với các công ty công nghệ đang hướng tới đổi mới sáng tạo bền vững.

Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, khung pháp lý và tiêu chí niêm yết vẫn thiên về các ngành truyền thống, vốn có lợi nhuận và dòng tiền dễ dự đoán hơn. Các công ty công nghệ, dù tăng trưởng mạnh và có triển vọng lợi nhuận rõ ràng, vẫn gặp nhiều rào cản khi IPO trong nước. Điều này khiến chu trình vốn bị gián đoạn, làm suy yếu động lực phát triển tự nhiên của hệ sinh thái công nghệ.

Tôi tin rằng, nếu chúng ta quyết tâm cải cách cơ chế IPO trong nước cho doanh nghiệp công nghệ theo hướng minh bạch, linh hoạt và phù hợp với đặc thù ngành, thì sẽ thay đổi hoàn toàn bức tranh này. Khi có một “lối thoát vốn” rõ ràng, các quỹ mạo hiểm và đầu tư tư nhân sẽ mạnh dạn rót vốn hơn. Các nhà đầu tư trong nước có cơ hội tham gia những câu chuyện thành công của start-up Việt và vốn nước ngoài không còn là nguồn cung vốn duy nhất. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ nguồn vốn quốc tế. Trái lại, tôi tin rằng, một cơ chế IPO trong nước tối ưu, minh bạch sẽ hấp dẫn được dòng vốn quốc tế dồi dào hơn.

Chú trọng công nghệ chiến lược AI là cơ hội lớn cho Việt Nam

Cùng với việc hoàn thiện hạ tầng vốn, một yếu tố không thể thiếu là đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng số và AI. Tại VNG, chúng tôi coi AI là chất xúc tác cốt lõi cho giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế Việt Nam.

Ở mảng người dùng cá nhân, thông qua Zalo AI, chúng tôi từng bước làm thay đổi cách hàng chục triệu người liên lạc, tương tác, trao đổi công việc. Ở mảng doanh nghiệp, ưu tiên của chúng tôi là khám phá cách AI có thể thúc đẩy tự động hóa và cải tiến quy trình, giúp doanh nghiệp vận hành hiệu quả hơn, linh hoạt hơn và cạnh tranh hơn. Hạ tầng AI mà chúng tôi phát triển cho phép xây dựng, thử nghiệm và triển khai các giải pháp AI trong nhiều ngành kinh tế khác nhau.

Nhưng đổi mới sáng tạo không chỉ dừng lại ở việc tạo ra ngành kinh tế mới. Điều quan trọng hơn là chuyển đổi các ngành truyền thống thành ngành công nghiệp số, nơi công nghệ trở thành động lực giúp nông nghiệp, tài chính, sản xuất hay logistics phát triển bền vững và cạnh tranh hơn.

Chúng tôi vẫn nói với nhau rằng, trong cụm từ “chuyển đổi số”, thì “số” chỉ có 2 ký tự, trong khi “chuyển đổi” dài hơn rất nhiều. Nói cách khác, chuyển đổi mới là phần khó và quan trọng, vì không chỉ đòi hỏi sự thay đổi về công nghệ, mà quá trình này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi hoàn toàn tư duy và cách tiếp cận vấn đề.

Bốn ưu tiên chính sách khuyến nghị

Từ góc nhìn của một doanh nghiệp công nghệ Việt Nam, tôi cho rằng, có bốn ưu tiên cần được cụ thể hóa để thực hiện thành công các mục tiêu mà Văn kiện trình Đại hội XIV và các nghị quyết của Đảng.

Thứ nhất, cần cải cách cơ chế thị trường vốn và IPO cho doanh nghiệp công nghệ. Theo đó, cần xây dựng khung tiêu chí niêm yết phù hợp đặc thù ngành, cho phép các doanh nghiệp công nghệ có tiềm năng tăng trưởng rõ ràng được IPO sớm hơn. Song song đó, cần khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước thông qua ưu đãi thuế và cơ chế rút vốn linh hoạt để hình thành chu trình vốn khép kín - từ khởi nghiệp đến niêm yết.

Thứ hai, xây dựng khung pháp lý linh hoạt và cơ chế sandbox hiệu quả. Nhà nước cho phép doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới - đặc biệt trong lĩnh vực AI, dữ liệu và fintech - mà không bị cản trở bởi các thủ tục hành chính phức tạp.

Thứ ba, đầu tư hạ tầng số và AI quốc gia. Phát triển các trung tâm dữ liệu, AI Cloud, ngôn ngữ lớn tiếng Việt và nền tảng đám mây nội địa để mọi doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ, đều có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến.

Thứ tư, hỗ trợ dài hạn cho R&D và đổi mới sáng tạo. Thông qua các quỹ đầu tư, ưu đãi thuế và hợp tác công - tư, khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư cho nghiên cứu, hợp tác với viện trường, phát triển sản phẩm “Make in Vietnam”.

Việt Nam đang có chính sách, nhân tài và khát vọng. Điều chúng ta cần lúc này là hệ sinh thái tài chính - công nghệ đồng bộ, nơi vốn, tri thức và sáng tạo có thể lưu chuyển tự nhiên giữa các thế hệ doanh nghiệp.

Khi dòng vốn được khơi thông, hạ tầng AI được hoàn thiện và khung pháp lý đủ linh hoạt để khuyến khích đổi mới, hệ sinh thái công nghệ Việt Nam sẽ thực sự cất cánh, trở thành động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế trong kỷ nguyên số như mục tiêu Dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV đã đề ra.

Tăng trưởng GDP 2 con số: Năng lượng phải đi trước một bước
Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn tới có đạt 2 con số hay không phụ thuộc rất lớn vào ngành năng lượng. Để chuẩn bị cho sự phát triển kinh...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư