Thứ Năm, Ngày 13 tháng 11 năm 2025,
NSMO lý giải chuyện huy động thấp các nguồn điện gió trên Facebook
Thanh Hương - 13/11/2025 09:38
 
Bởi nhu cầu tiêu thụ điện thấp cùng việc nước các hồ thuỷ điện lớn về nhiều do chịu ảnh hưởng của 5 cơn bão và hoàn lưu sau bão gần đây nên một số nguồn như điện gió được huy động rất thấp, khiến nhà đầu tư ấm ức.

Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện quốc gia (NSMO) vừa đưa ra giải thích về hiện trạng vận hành hệ thống điện trong thời gian gần đây trên trang fanpage chính thức của mình ở mạng xã hội Facebook.

Đến ngày 13/11, trên website chính thức của NSMO tại địa chỉ https://www.nsmo.vn không có thông tin nào liên quan đến việc này.

Thông tin của NSMO được đưa ra khi thời gian gần đây có nhiều nhà nhà máy điện gió lên tiếng phàn nàn về bị cắt giảm lớn công suất huy động trong điều kiện gió tốt, gây thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp.

Nhiều bão mang theo nhiều nước cho thuỷ điện

Theo NSMO, trong thời gian vừa qua (đặc biệt là tháng 10 và đầu tháng 11/2025), công tác vận hành hệ thống điện Quốc gia gặp rất nhiều thách thức, chủ yếu do các yếu tố bất lợi từ thời tiết và tình hình thủy văn của các hồ chứa thủy điện.

Một điểm đặc biệt trong vận hành năm 2025 là sự biến động trái quy luật của thời tiết. Theo quy trình vận hành liên hồ chứa và quy luật thủy văn hàng năm, thời điểm hiện tại hầu hết các hồ thủy điện miền Bắc, Nam và một số hồ khu vực miền Trung đã chuyển sang giai đoạn tích nước.

Nhà máy Thủy điện Sông Tranh 2 vận hành an toàn, góp phần điều tiết giảm lũ và bảo vệ hạ du trong các đợt mưa lớn tháng 10/2025.

Đặc biệt các hồ thủy điện trên lưu vực sông Hồng ở miền Bắc đã chuyển sang giai đoạn vận hành mùa cạn từ 16/9.

Tuy nhiên, năm 2025, nhiều cơn bão lớn xuất hiện kế tiếp nhau trong giai đoạn tháng 10-11/2025 vừa qua như RAGASA, BUALOI, MATMO, FENGSHEN, KALMAEGI đã khiến số lượng các hồ chứa xả điều tiết vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, thậm chí thời điểm đầu tháng 11/2025, số lượng hồ xả tăng lên mức 82-91/122 hồ, với tổng công suất các hồ thủy điện xả tăng lên 15.940-17.040 MW (trên tổng số 19.600 MW thủy điện toàn hệ thống).

Đáng nói là trong đó có các hồ lớn khu vực miền Bắc đã phải mở cửa xả trở lại như Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu (tổng công suất các hồ thủy điện dãy Sông Đà vào khoảng 5.760 MW).

Buộc phải duy trì nhiệt điện than và các hợp đồng BOT có yêu cầu bao tiêu sản lượng

Bên cạnh việc thuỷ văn thuận lợi do mưa bão khiến thuỷ điện tăng phát thì có thực trạng tiêu thụ điện đang ở mức thấp được NSMO nhắc tới.

Cụ thể, mặc dù nhu cầu tiêu thụ điện tiếp tục duy trì ở mức thấp (do ảnh hưởng của bão và thời tiết) nhưng hình dáng biểu đồ phụ tải xuất hiện đỉnh nhọn theo đặc điểm mùa và có tốc độ tăng nhanh vào khoảng thời gian từ 17h45-18h00 hàng ngày, chênh lệch giữa phụ tải miền Bắc vào thấp điểm đêm và cao điểm tối có thể lên tới 10.000-11.500 MW, đồng thời trong khung giờ cao điểm có thể tăng/giảm 2.500- 2.800 MW trong vòng 30-40 phút.

Nhà máy Nhiệt điện BOT Vân Phong 1 của Tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản) có tổng mức đầu tư gần 2,58 tỷ USD, đã đi vào vận hành hồi tháng 3/2024, sau khoảng 18 năm theo đuổi. 

Để đảm bảo đủ công suất đáp ứng phủ tải đỉnh cao điểm 18h như đã phân tích ở trên, cần thiết phải duy trì huy động các tổ máy nhiệt điện than (vốn có thời gian khởi động lâu, không thể ngừng/khởi động liên tục, linh hoạt như thủy điện) chỉ để tăng huy động công suất vào cao điểm, trong khi đó hầu hết các giờ còn lại trong ngày chỉ được huy động ở mức công suất tối thiểu theo yêu cầu kỹ thuật tổ máy để đảm bảo an toàn tổ máy.

Bên cạnh đó, các tổ máy nhiệt điện than cần duy trì để đảm bảo quán tính của hệ thống điện (về điểm này, các nguồn năng lượng tái tạo hầu như không đáp ứng được), đảm bảo chế độ điện áp khu vực và chống quá tải các đường dây tải điện.

Ngoài ra, các nhà máy điện BOT phải huy động để đảm bảo cam kết bao tiêu vật lý theo Hợp đồng BOT có bảo lãnh của Chính phủ với tổng công suất lên đến hơn 4.000 MW, đây cũng là một cấu phần chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu huy động nguồn điện.

Với thực trạng này thì dù công suất nguồn điện gió tăng cao khi bão ảnh hưởng vào đất liền khiến công suất khả phát (có thể phát điện) tăng lên tới cỡ 3.400 - 4.000 MW, tức là tăng khoảng  3 - 4 lần so với trước đó thì điện gió cũng không thể huy động được như chờ đợi của các nhà đầu tư.

Điện gió khiếu nại

 Theo khiếu nại của các doanh nghiệp điện gió tại Quảng Trị, 18 ngày gần đây (từ 19/10 đến 5/11), hệ thống điện quốc gia ghi nhận sự chênh lệch đáng kể trong điều độ giữa các nguồn điện.

Theo thống kê từ website của Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO), sản lượng điện phát từ các nhà máy nhiệt điện (than, khí, dầu) đạt 6.598,9 GWh, chiếm tới 43,33% tổng sản lượng toàn hệ thống. Với công suất lắp đặt 39.746 MW, tỷ lệ công suất trung bình được huy động đạt 38,43%.

Ngược lại, điện gió chỉ phát lên lưới 582,9 GWh, tương đương 3,83% tổng sản lượng. Dù tổng công suất lắp đặt đạt 7.102 MW, tỷ lệ công suất trung bình được huy động của điện gió chỉ 19%, chưa bằng một nửa so với nhiệt điện, trong bối cảnh gió đang ở mùa ổn định nhất trong năm.

Trước tình hình này, các doanh nghiệp điện gió tại Quảng Trị đã gửi văn bản kiến nghị tới Bộ Công Thương, UBND tỉnh Quảng Trị, EVN và NSMO, đề nghị xem xét việc hạn chế cắt giảm công suất phát điện khả dụng.

Cụ thể, từ cuối tháng 9/2025 đến nay, cụm nhà máy điện gió tại Quảng Trị liên tục bị cắt giảm công suất, có thời điểm lên tới 99%. Bình quân, công suất bị giảm từ 20% đến 90%, khiến doanh thu tháng 10 sụt khoảng 5% so với kế hoạch cả năm.

Nếu tình trạng này kéo dài đến hết năm, doanh thu 2025 có thể giảm 10-20%, trong khi lợi nhuận định mức chỉ còn 5-10% sau khi trừ chi phí vận hành, trả nợ và bảo trì. Với các dự án hiệu suất trung bình, lợi nhuận thực tế không đến 5%.

“Với mức cắt giảm như hiện nay, doanh thu mất đi lớn hơn lợi nhuận định mức. Nếu kéo dài, doanh nghiệp sẽ không đủ khả năng trả nợ ngân hàng, duy trì hoạt động và phúc lợi người lao động. Nguy cơ phá sản là hoàn toàn có thể xảy ra”, đại diện một doanh nghiệp điện gió lo ngại.

 An toàn, ổn định, tin cậy đặt lên hàng đầu

Với vai trò là đơn vị điều độ hệ thống điện Quốc gia, NSMO cho biết, luôn đặt mục tiêu vận hành hệ thống điện an toàn, ổn định, và tin cậy lên hàng đầu.

Ngay từ đầu tháng 10/2025, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương tại các Công điện về chủ động ứng phó với bão số 11 (MATMO), bão số 12 (FENGSHEN) và bão số 13 (KALMAEGI), trong đó tập trung vận hành an toàn hồ chứa, huy động hợp lý các nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia, bảo đảm cung cấp đủ điện và có dự phòng, kịp thời ứng phó với các tình huống bất thường do ảnh hưởng của bão và phối hợp với các đơn vị phát điện, các đơn vị quản lý lưới điện để tối ưu chế độ vận hành của nhà máy điện và lưới điện.

Cụ thể, NSMO đã thực hiện nhiều biện pháp trong vận hành như ngừng dự phòng gần 3.000 MW nhiệt điện than miền Bắc ngay sau khi bão số 13 tan (các tổ máy này cần duy trì để đảm bảo an toàn cho hệ thống trước và khi bão đổ bộ vào đất liền).

Nhà máy điện Phú Mỹ 3 dùng khí LNG để phát điện. 

Việc ngừng/khởi động trong ngày nhiều tổ máy tuabin khí nội địa và LNG để đáp ứng công suất đỉnh cao điểm tối hay tối đa khả năng truyền tải trên các đường dây liên kết để giải tỏa công suất nguồn điện.

Dẫu vậy NSMO cũng cho hay, việc ngừng/khởi động liên tục các tổ máy tuabin khí như vậy sẽ ảnh hưởng đến độ bền và sẵn sàng của tổ máy. Với những ràng buộc kỹ thuật như trên, việc duy trì phương thức vận hành này trong thời gian dài là không khả thi, bởi không chỉ làm giảm tuổi thọ thiết bị mà còn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh sự cố, ảnh hưởng đến an toàn, ổn định của toàn hệ thống điện.

Theo NSMO, dù đã thực hiện nhiều biện pháp trong vận hành nhưng hệ thống vẫn ở trạng thái thừa nguồn cả trong thấp điểm đêm và thấp điểm trưa.

NSMO đã bắt buộc phải thực hiện điều chỉnh huy động các nhà máy điện, giảm đồng đều giữa các loại hình nguồn năng lượng tái tạo và các nguồn thủy điện đang xả khi lượng công suất dư thừa lớn.

“Việc giảm huy động công suất là giải pháp kỹ thuật bắt buộc để đảm bảo hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định, liên tục và duy trì tần số, điện áp trong giới hạn cho phép cũng như đảm bảo an toàn cho các tổ máy đang huy động trên hệ thống. Công tác điều độ và ra lệnh giảm huy động được thực hiện dựa trên các tính toán kỹ thuật, đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch và không phân biệt đối xử giữa các đơn vị”, thông báo của NSMO cho hay.

Cạnh đó, NSMO cũng đánh giá, tình trạng thừa nguồn này xảy ra do ảnh hưởng của nhiều yếu tố xếp chồng, trong đó có các cơn bão lớn xuất hiện liên tiếp với các hình thái thời tiết cực đoan, có tính chất tích lũy liên tục trong một khoảng thời gian và sẽ không kéo dài (phụ thuộc vào tình hình bão, lũ trong thời gian còn lại của năm 2025).

Dự kiến tình hình sẽ sớm được cải thiện khi các hoàn lưu bão kết thúc và điều kiện thủy văn trở lại theo các quy luật thông thường, các nguồn điện khác sẽ được huy động thêm để đảm bảo vận hành an toàn hệ thống và tích, giữ nước các hồ thủy điện, chuẩn bị cho mùa khô năm 2026.

Kích cầu là điểm mấu chốt

Tại cuộc họp của Bộ Công thương về Kế hoạch hệ thống điện và thị trường điện năm 2026 diễn ra ngày 10/11, dự báo phụ tải tiêu thụ điện của năm 2025 đã được NSMO cập nhật cho ra con số dự kiến tổng sản lượng điện tiêu thụ toàn hệ thống điện quốc gia trong năm 2025 sẽ đạt 322,6 tỷ kWh. Tức là chỉ  tăng trưởng 4,5% so với năm 2024.

Con số này cũng bỏ rất xa so với các dự báo được đưa ra hồi cuối năm 2024 về nhu cầu điện năng trong năm 2025 sẽ tăng trưởng cao ở mức 12% nhằm đáp ứng mức tăng trưởng GDP dự kiến khoảng 8%.

Điện than vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn cung điện, từ 40-50% tuỳ thời điểm. 

Theo Quyết định số 3047/QĐ-BCT ngày 15/11/2024 về việc phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2025, hệ thống điện quốc gia sẽ được điều hành với mức tăng trưởng điện sản xuất và nhập khẩu được lên kế hoạch là 11,3% kèm theo dự báo thủy văn về kém, xác suất sự cố tính ở mức 10%...

Thực tế tiêu thụ điện trong 10 tháng qua cũng cho thấy, tăng trưởng tiêu thụ điện của cả nước chỉ quanh mức 4%.

Dĩ nhiên khi nhu cầu không cao thì nguồn cung điện cũng không thể phát được như kỳ vọng của các nhà máy điện. Nhất là khi điện là hàng hoá đặc biệt có tính chất sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời và nếu không có người dùng điện thì cũng không ai mua điện để các nhà máy được huy động phát điện.

Việc sử dụng pin lưu trữ (BESS) tuy được xem là một giải pháp tối ưu để lưu trữ điện khi nguồn phát dư thừa trong nhiều thời gian. Dẫu vậy thì thực tế vốn đầu tư làm pin lưu trữ cũng không rẻ, trong khi giá mua điện từ BESS hiện nay cũng chưa được Bộ Công thương ban hành. Thậm chí nếu giá điện từ BESS được ban hành mà có giá bán vào hệ thống cao hơn giá bán lẻ điện bình quân của nền kinh tế thì việc bán được cũng không dễ, bởi e ngại gây thua lỗ thêm cho người mua buôn duy nhất hiện nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Bởi vậy, câu chuyện cấp bách hiện nay là kích cầu tiêu dùng điện trong nền kinh tế để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trong năm 2025 và cao hơn ở mức 2 con số trong các năm tiếp theo.

Thách thức vận hành hệ thống điện
Theo kế hoạch vận hành hệ thống điện năm 2019 được Bộ Công thương phê duyệt, trong tổng số 241 tỷ kWh điện được sản xuất cả năm, phần...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư