Thứ Hai, Ngày 03 tháng 03 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 3/3: Cảnh giác với bệnh nấm phổi do nấm mốc
D.Ngân - 03/03/2025 11:49
 
Để phòng ngừa bệnh nấm phổi, bác sĩ khuyến cáo mọi người cần duy trì môi trường sống khô ráo, thoáng mát để giảm thiểu sự phát triển của nấm mốc.

Bệnh do nấm mốc diễn biến âm thầm nhưng rất nguy hiểm

 Bệnh nấm phổi, đặc biệt do Aspergillus, là một bệnh lý nghiêm trọng, diễn biến âm thầm và có thể gây tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Tại Việt Nam, khoảng 50% bệnh nhân đã từng mắc lao, khi tái khám tại các cơ sở chuyên khoa hô hấp, đều mắc nấm phổi do Aspergillus.

Theo Tổ chức Hành động Toàn cầu về Nhiễm nấm (GAFFI), bệnh nấm mốc hiện là nguyên nhân gây tử vong cho hơn 4 triệu người mỗi năm trên toàn cầu, khiến nó trở thành một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, vượt qua cả bệnh lao và sốt rét.

Nấm phổi do Aspergillus là một dạng bệnh nhiễm trùng phổi ít gặp ở người có sức đề kháng tốt, nhưng rất phổ biến đối với những người mắc bệnh phổi mạn tính hoặc có hệ miễn dịch suy giảm. Các nghiên cứu cho thấy rằng, tỷ lệ mắc nấm phổi mạn tính ở bệnh nhân lao đã điều trị là tới 56%.

Tuy nhiên, bệnh nấm phổi thường bị bỏ sót do các triệu chứng không rõ ràng và diễn tiến âm thầm, dẫn đến việc phát hiện muộn, khiến việc điều trị trở nên khó khăn và chi phí rất cao.

Nấm Aspergillus, một loại nấm mốc rất phổ biến trong môi trường, có mặt trong cả nhà và ngoài trời. Mỗi khi chúng ta hít thở, có thể hít vào từ 1 đến 10 bào tử nấm này.

Tuy nhiên, không phải ai cũng mắc bệnh, và nguy cơ mắc bệnh chủ yếu ở những người có bệnh phổi mãn tính, hệ miễn dịch suy giảm hoặc những người đã trải qua phẫu thuật phổi, ung thư phổi, xạ trị, hóa trị.

Theo TS.Nguyễn Thị Bích Ngọc, Giám đốc Trung tâm Bệnh phổi hiếm và các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương, bệnh do nấm phổi diễn biến rất âm thầm cho đến khi các triệu chứng bùng phát, khiến người bệnh mới đi khám. Những dấu hiệu thường gặp là ho kéo dài, ho ra máu không rõ lý do, sốt kéo dài, đau ngực, khó thở, và ho khạc đờm.

Bệnh nấm phổi, tuy chiếm tỷ lệ thấp trong các bệnh phổi (chỉ khoảng 0,02%), nhưng khi mắc phải, chi phí điều trị rất cao, đặc biệt khi không được bảo hiểm y tế chi trả. Nếu không được điều trị kịp thời, tỷ lệ tử vong rất cao. Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân sau 1 năm, 5 năm và 10 năm lần lượt là 86%, 62% và 47%.

Một trong những thách thức lớn trong việc điều trị bệnh nấm phổi là khó khăn trong chẩn đoán. Các bác sỹ và nhân viên y tế cần phải được đào tạo kỹ lưỡng để nhận diện và chẩn đoán sớm bệnh nấm, vì các xét nghiệm hiện nay chưa có độ nhạy cao và nhiều xét nghiệm không sẵn có ở nhiều quốc gia.

TS.Ngọc cho biết, bệnh nấm phổi không thể điều trị dứt điểm, mà chỉ có thể điều trị nội khoa để ngăn ngừa các triệu chứng và sự lan rộng của nấm trong phổi. Các biện pháp điều trị bao gồm sử dụng thuốc kháng nấm, tuy nhiên nhiều trường hợp nặng có thể phải phẫu thuật hoặc làm các thủ thuật can thiệp để kiểm soát bệnh.

Để phòng ngừa bệnh nấm phổi, Tiến sỹ Ngọc khuyến cáo mọi người cần duy trì môi trường sống khô ráo, thoáng mát để giảm thiểu sự phát triển của nấm mốc. Khi làm việc trong môi trường có nguy cơ cao (như vườn cây, lá mục, hoặc nơi có nhiều nấm), người dân cần đeo khẩu trang để bảo vệ sức khỏe.

Ngoài ra, việc tiêm vắc-xin phòng cúm, phế cầu cũng giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng phổi. Việc rèn luyện thân thể, ăn uống đầy đủ và nâng cao sức đề kháng cũng là những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.

Tại Hội thảo khoa học Ngày Nấm Toàn Cầu 2025, các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện sớm và điều trị bệnh nấm phổi. Hội thảo có sự tham gia của nhiều bác sỹ chuyên ngành hô hấp, truyền nhiễm, hồi sức cấp cứu và vi sinh, nhằm cập nhật các kiến thức về chẩn đoán và điều trị nấm phổi.

Các chuyên gia cũng đề xuất các cơ sở y tế cần tích cực phát hiện bệnh nấm phổi trong quá trình điều trị bệnh lao phổi, vì bệnh này có thể gây biến chứng nặng nề nếu không được điều trị kịp thời.

Gánh nặng bệnh ung thư ở phụ nữ và hy vọng điều trị

Ung thư vòng 1 là bệnh ung thư phổ biến hàng đầu ở nữ giới trên thế giới và tại Việt Nam. Theo thống kê từ GLOBOCAN năm 2022, thế giới ghi nhận gần 2,3 triệu ca mắc mới, 666.000 ca tử vong do ung thư này mỗi năm, với Việt Nam là khoảng 24.600 ca mới mắc và hơn 10.000 ca tử vong.

Dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, song ung thư vú vẫn là gánh nặng với tiên lượng kém trên một số nhóm bệnh nhân.

Ung thư vòng 1 là nguyên nhân gây tử vong do ung thư thứ hai ở phụ nữ Châu Á, chiếm 39% tổng số ca mắc bệnh này trên toàn thế giới.

Một thống kê cho thấy có đến 58% số ca tử vong do ung thư trên toàn cầu xảy ra ở Châu Á, trong đó các loại ung thư phổ biến và gây tử vong cao nhất là ung thư phổi, vú, đại trực tràng, gan và dạ dày. Khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên dự kiến sẽ đạt 25% vào năm 2050, gánh nặng ung thư ở các nước Châu Á dự kiến sẽ tăng đáng kể.

Đây cũng là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ hai ở phụ nữ Châu Á và chiếm 39% tổng số ca ung thư vú trên toàn thế giới.

Mặc dù tỷ lệ mắc ung thư vòng 1 ở Châu Á vẫn thấp hơn ở phương Tây, nhưng có dấu hiệu cho thấy các trường hợp đang gia tăng. Ngoài ra, từ 2 đến 25% bệnh nhân ung thư vú trong khu vực có biểu hiện ung thư vú di căn ngay từ đầu, so với 3 đến 10% bệnh nhân ở Hoa Kỳ và Châu Âu.

Theo dữ liệu của GLOBOCAN năm 2022, ung thư vú chiếm đến 8,3% tổng số ca tử vong do ung thư tại Việt Nam mỗi năm. Những năm gần đây, tỷ lệ phát hiện ung thư vòng 1 ở giai đoạn sớm (giai đoạn 0, 1, 2) ở mức 76,6% so với 52,4% ở giai đoạn 2008-2010.

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh thêm nếu được chẩn đoán sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân có thể lên đến 90%, thậm chí với nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, tỷ lệ sống thêm 10 năm ở giai đoạn sớm là trên 80%.

Trong một sự kiện về ung thư vú mới đây, các chuyên gia cũng thẳng thắn cho hay, trên thực tế vẫn còn rất nhiều chị em phụ nữ Việt Nam chưa chủ động trong việc tự đi khám sàng lọc bệnh ung thư vú.

Ung thư vòng 1 đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc mới tại Việt Nam và tỷ lệ bệnh nhân chẩn đoán giai đoạn III, IV còn cao, cùng với xu hướng ung thư vú trẻ hóa. 15% bệnh nhân dưới 40 tuổi, 45% bệnh nhân dưới 50 tuổi được chẩn đoán ung thư di căn trong số tất cả các bệnh nhân. Phụ nữ trẻ tuổi có xu hướng biểu hiện ở giai đoạn tiến triển hơn, có tỷ lệ tái phát tại chỗ cao hơn và tỷ lệ sống sót chung thấp hơn.

Dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, song ung thư vòng 1 vẫn là gánh nặng với tiên lượng kém trên một số nhóm bệnh nhân.

Các chuyên gia cũng cho hay, ung thư vòng 1 luôn là một trong những thách thức lớn nhất trong lĩnh vực y tế hiện đại. Tỷ lệ sống trên 5 năm ở những bệnh nhân di căn chỉ khoảng 30%, và bệnh nhân tái phát chỉ 17%.

Ngay từ 6 giờ sáng, gần 100 chị em đã có mặt tại Trung tâm Thẩm mỹ, Bệnh viện Trung ương quân đội 108 để đợi khám sàng lọc. Họ đều mang theo mình khiếm khuyết vòng 1 và đã trải qua nhiều tháng ngày mệt mỏi, kiệt sức điều trị ung thư vú. Hôm nay, họ đến đây với rất nhiều hy vọng.

Chị H. (46 tuổi, Hà Nội) là một trong số đó. Chị đã phát hiện mắc ung thư vú vào năm 2019. Mặc dù ung thư của chị được phát hiện ở giai đoạn sớm và bác sỹ chỉ cần phẫu thuật loại bỏ một bên vú và vét hạch nách, chị vẫn cảm thấy chán nản và mông lung.

"Bác sỹ có tư vấn đặt túi ngực, nhưng lúc đó tôi chỉ muốn loại bỏ hết tế bào ung thư, không nghĩ nhiều về việc tái tạo vòng 1. Sau này, khi kinh tế khó khăn, tôi không thể thực hiện vì chi phí rất cao," chị H. chia sẻ.

Sau quãng thời gian điều trị tại Bệnh viện E và Bệnh viện K3 Tân Triều, khi sức khỏe ổn định và con cái đã lớn, chị H. bắt đầu nghĩ đến việc tái tạo vòng 1 và hy vọng sẽ có cơ hội tham gia chương trình phẫu thuật miễn phí tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.

Chị T. (31 tuổi, Thái Bình) cũng không may mắn khi phát hiện mắc ung thư vú giai đoạn 2 vào năm 2021.

Sau khi phẫu thuật cắt bỏ một bên vú và trải qua xạ trị, chị T. đã có những suy nghĩ không thoải mái về hình thể, đặc biệt khi tham gia các hoạt động xã hội như đi biển. Tuy nhiên, do kinh tế khó khăn và lo ngại về việc cơ thể có thể phản ứng với chất liệu tái tạo, chị vẫn chưa nghĩ tới việc thực hiện phẫu thuật tạo hình.

Đã có gần 60 bệnh nhân ung thư vòng 1 đã tham gia chương trình khám sàng lọc tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Các bác sỹ tại đây rất thận trọng trong việc lựa chọn bệnh nhân đủ điều kiện phẫu thuật, vì quá trình sàng lọc đòi hỏi chuyên môn cao để đảm bảo an toàn cho các bệnh nhân.

PGS-TS.Vũ Ngọc Lâm, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, các bác sỹ sẽ lựa chọn khoảng 30-50 bệnh nhân để phẫu thuật trong năm nay. Các ca phẫu thuật có thể đơn giản, như chỉ cần đặt túi ngực, nhưng cũng có những ca phức tạp hơn, yêu cầu can thiệp sâu hơn, như lấy vạt da hoặc cơ để tái tạo hình ngực.

"Chúng tôi hy vọng các bệnh nhân sau phẫu thuật có thể tìm lại sự tự tin, không chỉ về hình thể mà còn về tâm lý, cải thiện chất lượng cuộc sống của họ," bác sỹ Lâm chia sẻ.

Ngay sau đó, các bác sỹ đã tiến hành phẫu thuật cho hai bệnh nhân. Một ca đơn giản chỉ cần đặt túi ngực, và một ca phức tạp hơn, phải lấy vạt da từ chỗ khác để tạo hình vú.

Sau khi điều trị ung thư, các bệnh nhân có thể gặp phải những tổn thương nặng nề về mặt cấu trúc cơ thể, khiến phẫu thuật tái tạo vòng 1 phức tạp hơn so với các ca nâng ngực thông thường. Một trong những lo lắng của nhiều bệnh nhân là việc tái phát ung thư sau khi phẫu thuật tạo hình.

PGS.Vũ Ngọc Lâm khẳng định rằng, các bệnh nhân tham gia phẫu thuật lần này đều đã điều trị ung thư thành công và có thời gian theo dõi đủ lâu để xác định tình trạng ổn định. Các bác sỹ sẽ sử dụng kỹ thuật và chất liệu an toàn để đảm bảo chẩn đoán và điều trị sau phẫu thuật không gặp khó khăn.

Mặc dù bảo hiểm y tế hiện nay chỉ chi trả cho điều trị ung thư vú, chưa chi trả cho việc tạo hình, nhưng với chương trình phẫu thuật miễn phí của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhiều chị em sẽ có cơ hội tìm lại hình thể cân đối và sự tự tin để hòa nhập với cuộc sống.

Cũng theo Vũ Ngọc Lâm, Bệnh viện sẽ tiếp tục duy trì chương trình phẫu thuật tạo hình vòng 1 miễn phí này thường niên, giúp phụ nữ sau khi mắc ung thư vú có thể lấy lại sự tự tin và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Khám phá nguyên nhân gây bệnh da hiếm gặp và những giải pháp hiện tại

Bệnh da hiếm gặp là nhóm bệnh lý có tỷ lệ mắc rất thấp, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, đồng thời có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng.

Tuy nhiên, việc chẩn đoán các bệnh này lại rất khó khăn, bởi các nguyên nhân gây bệnh không phải lúc nào cũng rõ ràng, và các phương pháp điều trị hiệu quả vẫn chưa được tìm ra.

Theo bác sỹ Vũ Thái Hà, Trưởng khoa Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ tế bào gốc tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, bệnh da hiếm gặp có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Các bệnh này thường không được nhận diện và chẩn đoán đúng ngay từ đầu, khiến cho quá trình điều trị gặp nhiều khó khăn.

Bệnh nhân thường phải đi qua nhiều cơ sở y tế trước khi đến các bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối. Các nguyên nhân chính gây ra các bệnh da hiếm gặp có thể được chia thành 4 nhóm chính:

Do di truyền: Đây là nhóm nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất (60-80% tổng số các bệnh da hiếm gặp). Các bệnh trong nhóm này thường xuất hiện từ khi còn nhỏ, với khoảng 80% ca bệnh phát hiện từ thời thơ ấu. Các bệnh này có tính chất di truyền, thường dai dẳng và khó điều trị, dễ dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng.

Do nhiễm trùng: Các bệnh da hiếm gặp cũng có thể do các vi trùng, vi rút, hoặc nấm gây ra. Một số bệnh nhiễm trùng này rất dễ phát hiện, nhưng cũng có những trường hợp vi trùng hoặc vi rút hiếm gặp gây bệnh, khiến việc chẩn đoán trở nên phức tạp hơn.

Rối loạn thần kinh tâm thần: Nhóm bệnh này thường ít được chú ý. Để chẩn đoán chính xác, cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia về da liễu và các chuyên gia thần kinh, tâm thần. Việc phát hiện sớm nhóm bệnh này là rất quan trọng, bởi nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và sức khỏe tổng thể của người bệnh.

Nguyên nhân chưa rõ: Một số bệnh da hiếm gặp có nguyên nhân không xác định, gây khó khăn trong việc chẩn đoán và điều trị. Những bệnh này thuộc nhóm phức tạp và cần nghiên cứu thêm để tìm ra nguyên nhân và phương pháp điều trị hiệu quả.

Bệnh da hiếm gặp có ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, không chỉ về mặt thể chất mà còn cả tâm lý. Tuy nhiên, cho đến nay, các phương pháp điều trị cho những bệnh này chủ yếu chỉ giúp kiểm soát triệu chứng chứ không có thuốc đặc trị. Do tính chất phức tạp và thiếu nhận thức về bệnh, nhiều bệnh nhân đã phải chịu đựng lâu dài trước khi được chẩn đoán chính xác.

Bệnh viện Da liễu Trung ương hiện đang quản lý 130 bệnh nhân mắc các bệnh da hiếm gặp như u xơ thần kinh, vảy cá, khô da sắc tố, u xơ củ, dày sừng... Các bệnh này đang cần sự quan tâm và nghiên cứu sâu hơn từ cộng đồng y tế, để phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả và hỗ trợ chẩn đoán chính xác hơn.

Trong bối cảnh đó, cuốn sách "Bệnh da hiếm gặp" của GS-TS.Trần Hậu Khang, vừa được ra mắt phiên bản tiếng Anh, sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý và nghiên cứu các bệnh này. Cuốn sách là một tài liệu quý giá trong lĩnh vực da liễu, bao gồm gần 50 bệnh da hiếm gặp, cung cấp kiến thức lý thuyết, các bằng chứng y khoa và quan sát thực tế từ các ca bệnh hiếm gặp ở Việt Nam và trên thế giới.

Cuốn sách cũng là kết quả của quá trình hơn 40 năm làm nghề của GS-TS.Trần Hậu Khang, người đã từng đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong ngành da liễu, và đóng góp lớn vào việc biên soạn tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và điều trị cho các bệnh da trong khu vực.

Thông qua những nỗ lực này, hy vọng sẽ nâng cao nhận thức cộng đồng và giới y khoa về các bệnh hiếm gặp, từ đó thúc đẩy nghiên cứu, hỗ trợ chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư