Thứ Năm, Ngày 06 tháng 11 năm 2025,
Cơ hội để Việt Nam bước lên nấc thang cao hơn của quá trình phát triển
Khánh An - 06/11/2025 09:38
 
“Nền kinh tế Việt Nam đang cần thể chế khuyến khích, nuôi dưỡng, thúc đẩy, tạo cầu kéo về khoa học công nghệ và tạo môi trường để có thể rút ngắn giai đoạn, bước nhanh sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới, sáng tạo”, TS. Nguyễn Đình Cung, chuyên gia kinh tế trao đổi như vậy, khi đặt kỳ vọng vào những bước cải cách thể chế đang được thúc đẩy với tư duy đột phá.
TS. Nguyễn Đình Cung, chuyên gia kinh tế.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới

Trong quan điểm chỉ đạo, Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội lần thứ XIV của Đảng ghi rõ: “Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất; hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi: chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới”.

Cách đây 14 năm, vào năm 2011, Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nhắc đến yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.

Việc đặt ra nhiệm vụ xác lập mô hình tăng trưởng mới vào thời điểm này có ý nghĩa thế nào, thưa ông?

Điều đầu tiên phải nhấn mạnh là, mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế đã được đề cập từ lâu, bắt đầu tập trung từ năm 2013 - với Đề án của Chính phủ về tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020.

Đến năm 2016, Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngay sau đó, Quốc hội đã có Nghị quyết số 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020…

Có thể thấy, đây là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển. Vấn đề là, chúng ta đã nói nhiều, nhưng nhìn lại, mô hình tăng trưởng vẫn chưa có nhiều thay đổi.

Một trong những mục tiêu của mô hình tăng trưởng mới là lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Ảnh: Đức Thanh

Trong báo cáo mới nhất trình Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã nhìn nhận thực tế là, mô hình tăng trưởng chậm chuyển đổi, vẫn chủ yếu dựa vào vốn và lao động, trong khi các động lực bền vững như đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức đóng góp còn hạn chế, khiến mô hình tăng trưởng khó chuyển dịch theo chiều sâu, đối mặt nguy cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình…

Các số liệu còn cho thấy, ngay cả TP.HCM - nơi có đầy đủ điều kiện để thực hiện chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng, bước vào giai đoạn II của quá trình phát triển, cũng chưa đạt được.

Ở đây, tôi muốn làm rõ mô hình tăng trưởng mà Dự thảo Báo cáo Chính trị đang đề cập. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã phân đoạn 5 giai đoạn phát triển, trong đó có 3 giai đoạn chính. Giai đoạn I là tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, thâm dụng lao động. Giai đoạn II là tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Giai đoạn III, động lực tăng trưởng giai đoạn này là khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo.

Giữa các giai đoạn trên, có 2 giai đoạn chuyển tiếp, ta hay gọi là giai đoạn quá độ. Theo lý thuyết, để chuyển từ giai đoạn I sang giai đoạn II, GDP bình quân đầu người phải đạt khoảng 3.800 - 4.000 USD; từ giai đoạn II sang giai đoạn III khoảng 8.000 - 9.000 USD.

Việc đo lường để xác định nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào cũng có nguyên tắc. Trong giai đoạn I, trọng số lớn nhất là mở rộng quy mô (khoảng 60%), nâng cao năng suất (khoảng 30%) và 10% là đổi mới sáng tạo. Giai đoạn II, trọng số lớn thuộc về năng suất, hiệu quả, tiếp sau là đổi mới sáng tạo và cuối cùng là mở rộng quy mô. Ở giai đoạn III, đổi mới, sáng tạo chi phối các động lực còn lại.

Như vậy, có thể cả nền kinh tế Việt Nam đang chuyển tiếp từ bậc 1 lên bậc 2, nhiều địa phương còn dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng, nhưng TP.HCM, Hà Nội và một số vùng tăng trưởng như Đông Nam bộ có thể bước hẳn sang giai đoạn II.

Lý do là, ở đó, các điều kiện đủ hội tụ, như lực lượng lao động đông đảo nhất, trường học, viện nghiên cứu - lực lượng nghiên cứu, khoa học công nghệ đầy đủ. Đặc biệt, áp lực phải chuyển đổi của các thành phố này là mạnh mẽ nhất vì hết dư địa tăng trưởng theo chiều rộng.

Nhưng các địa phương này đã không thực hiện được, hệ quả là sự sụt giảm tăng trưởng của TP.HCM, hay khó khăn trong bứt phá của Hà Nội…

Tại sao việc chuyển đổi này khó khăn đến thế, khi quyết tâm chính trị rất lớn và thời gian không phải là ngắn, thưa ông?

Giai đoạn II là giai đoạn thị trường nhân tố sản xuất đóng vai trò chủ đạo, nhưng đây lại là điểm nghẽn của nền kinh tế Việt Nam. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội lần thứ XIV của Đảng đã nhận diện rất rõ điểm này.

Đó là năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm ước đạt 5,3%, thấp hơn mục tiêu đề ra, Hệ số ICOR vẫn còn cao (6,9). Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm…

Phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém, Dự thảo Báo cáo Chính trị đã nhắc đến những nguyên nhân như nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền và lãnh đạo một số cơ quan, tổ chức, người đứng đầu còn hạn chế; nhiều yếu kém, bất cập tồn đọng, tích tụ từ trước chưa được xử lý triệt để, gây hệ lụy kéo dài. Hệ thống thể chế phát triển chưa đồng bộ, trở thành “điểm nghẽn của điểm nghẽn”…

Có lẽ phải nhìn sâu hơn vào thị trường các nhân tố sản xuất, để thấy sự phân bố méo mó, sai lệch. Hệ quả là tín dụng chưa chảy mạnh vào sản xuất, thị trường chứng khoán chưa thực sự thành kênh huy động vốn trung, dài hạn cho doanh nghiệp. Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển. Thị trường lao động phân mảng…

Câu hỏi cần phải đặt ra là tại sao thị trường chưa phải là động lực chủ yếu trong phân bổ, huy động và sử dụng các nguồn lực, khoảng cách cần phải khỏa lấp giữa thực tế và việc đạt được mục tiêu trên là bao nhiêu, làm thế nào để lấp đầy…

Động lực tăng trưởng mới

Theo Dự thảo Báo cáo Chính trị, mục tiêu của mô hình tăng trưởng mới hướng tới là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực.

Xác định các động lực tăng trưởng mới và lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống. Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu.

Như ông từng nói, để chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đứng yên để thị trường tiến, thì lần này, Nhà nước phải thay đổi vai trò thì thị trường mới tiến được. Vậy bài toán cần giải để xác lập mô hình tăng trưởng mới là gì?

Phải nhấn mạnh rằng, mấu chốt của việc hoàn thiện các loại thị trường nhân tố sản xuất là vai trò của Nhà nước. Nghĩa là, để động lực tăng trưởng của nền kinh tế là năng suất, chất lượng, hiệu quả, thì quản lý nhà nước phải chuyển từ xin - cho sang kiến tạo, từ “không quản được thì cấm” sang thúc đẩy phát triển - đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh.

Để làm được việc này, bài toán phải giải là “hệ thống thể chế phát triển chưa đồng bộ, trở thành điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Khi đó, nền kinh tế mới tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh.

Cụ thể, việc cần làm là gì, thưa ông?

Thứ nhất, phải có một môi trường thể chế, môi trường kinh doanh thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Trong môi trường đó, quyền tự do kinh doanh, quyền bảo vệ tài sản - không chỉ là nhà cửa, mà là tài sản trí tuệ được bảo đảm, từ đó phát triển thị trường chuyển giao, mua bán công nghệ, tài sản trí tuệ… Đây cũng là cơ sở quan trọng, tiên quyết để thu hút nhân tài, các tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng… của các đề án nghiên cứu khoa học công nghệ chiến lược.

Hiện tại, chúng ta có các đề án này, nhưng cần đánh giá, nhận diện thẳng thắn các điểm nghẽn để có kế hoạch cụ thể. Tôi rất kỳ vọng lần này, các chỉ đạo, ý kiến của Tổng Bí thư được thẩm thấu trong các kế hoach hành động cụ thể của các cấp, ngành, địa phương…

Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tốc độ phát triển vũ bão của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đang tạo ra cơ hội lớn cho các nền kinh tế đi sau. Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng từng nói, trong cuộc cách mạng này, Việt Nam “có thể bắt kịp, tiến cùng thời đại và có thể đi trước ở một số lĩnh vực mà ta có lợi thế”.

Việt Nam đã không tận dụng được cơ hội của 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, thì với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta có ý thức chủ động tham gia. Vì vậy, có thể đi nhanh, rút ngắn thời gian các giai đoạn phát triển, theo hướng vừa huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường, vừa tăng hàm lượng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào nâng cao hiệu quả, tạo ra động lực mới trong tăng trưởng.

Đặc biệt, điều tôi rất muốn nhấn mạnh, đó là tư duy chính trị trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng rất rõ ràng, nhưng cần làm rõ nội hàm để chuyển sang ngôn ngữ của hành động, để đảm bảo sự thống nhất trong tư duy và hành động. Nếu đội ngũ thực thi chưa dứt khoát với tư duy cũ, không dũng cảm đối mặt với thách thức, thì các giải pháp sẽ nửa vời, không tạo ra áp lực thay đổi.

Trong bối cảnh địa chính trị, kinh tế thế giới đang có nhiều biến động, tác động vào các chuyển dịch dòng vốn đầu tư, thương mại, chuỗi giá trị và cả nguồn nhân lực chất lượng cao của toàn cầu. Đây là thời điểm Việt Nam hội tụ các điều kiện, cơ hội để bước lên nấc thang cao hơn của quá trình phát triển.

Động cơ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cần thêm năng lượng tri thức
Khi đại học không chỉ dạy kinh doanh mà dạy kiến tạo kinh tế, tri thức trở thành động lực giúp Việt Nam bứt phá, hướng tới tăng trưởng 2 con...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư