Thứ Bảy, Ngày 31 tháng 05 năm 2025,
Giải pháp đột phá để kinh tế số cán đích 50% GDP
Tú Ân - 30/05/2025 08:05
 
Để quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP vào năm 2045, theo mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, cần nhiều giải pháp đột phá.
Lực lượng kỹ sư công nghệ là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong nền kinh tế số

Mục tiêu đột phá

Phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng cho một Việt Nam độc lập, tự cường và thịnh vượng trong kỷ nguyên số. Các nghị quyết của Đảng, chương trình hành động của Chính phủ đã được ban hành nhằm kiến tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi, mở cơ hội phát triển đột phá cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Những chính sách này không chỉ gỡ bỏ rào cản, mà còn thổi bùng ngọn lửa đổi mới sáng tạo trong cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số.

Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ, cả nước hiện có hơn 54.500 doanh nghiệp công nghệ số, doanh thu ngành đạt gần 152 tỷ USD. Với nền tảng là nguồn nhân lực trẻ, năng động cùng khát vọng hội nhập toàn cầu, doanh nghiệp Việt đang trở thành lực lượng tiên phong trong kiến tạo tương lai số, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP vào năm 2045 theo tinh thần Nghị quyết số 57/NQ-TW.

Mục tiêu lớn, quyết tâm cao, nhưng Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa, bởi theo bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng phòng Nghiên cứu Chính sách khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược), đóng góp của kinh tế số vào các lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam vẫn khiêm tốn. Trong nông nghiệp, tỷ trọng kinh tế số chỉ chiếm chưa đến 1%; còn trong công nghiệp và xây dựng, con số này cũng chỉ dưới 6%. Hiện phần lớn giá trị của kinh tế số vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực dịch vụ. Do đó, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số bền vững, việc mở rộng ứng dụng công nghệ số đồng đều vào các lĩnh vực là chiến lược cần thực hiện.

Đáng chú ý, nguồn nhân lực cho kinh tế số của Việt Nam còn hạn chế. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực này chỉ chiếm hơn 2% tổng lực lượng lao động của cả nước. Theo Hiệp hội An ninh mạng quốc gia, Việt Nam đang thiếu khoảng 700.000 nhân sự chuyên trách trong lĩnh vực an ninh mạng.

Ông Nguyễn Văn Khoa, Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA), Tổng giám đốc Tập đoàn FPT cho rằng, Việt Nam đang trở thành trung tâm dịch vụ số quốc tế. Theo ước tính, Việt Nam cần ít nhất 2,5 triệu nhân lực trong lĩnh vực này để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng.

“Làm sao để Việt Nam - quốc gia thu nhập trung bình thấp - có thể vươn lên, chiếm lĩnh khoảng trống của thị trường toàn cầu? Việt Nam thu hút dòng vốn FDI lớn, nhưng cần tự đặt câu hỏi: liệu chúng ta đã đủ năng lực và cơ chế để giữ chân nhân tài, trả mức lương xứng đáng cho lực lượng kỹ sư công nghệ? Đây là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia”, ông Khoa đặt vấn đề.

Hiến kế phát triển kinh tế số

Theo ông Khoa, để đạt được mục tiêu đột phá, cần chung tay hành động. Chính phủ tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, tăng cường đầu tư cho hạ tầng số và đào tạo nhân lực. Doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho nghiên cứu và phát triển, tập trung vào công nghệ lõi và chất lượng sản phẩm; tăng hợp tác, liên kết để tạo ra sức mạnh tổng hợp và cùng nhau chinh phục các thị trường lớn. Xã hội cần xây dựng văn hóa số, khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo và chấp nhận các mô hình kinh doanh mới.

Đặc biệt, Việt Nam cần thúc đẩy phát triển hạ tầng số, hạ tầng năng lượng cho chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. “Chúng tôi đề xuất Chính phủ ưu tiên đầu tư vào hạ tầng chiến lược như trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa lĩnh vực giáo dục tư nhân. Nếu làm tốt, lực lượng giáo dục tư nhân sẽ tạo ra kết quả vượt trội, giúp gắn kết chặt chẽ hơn giữa doanh nghiệp và đào tạo, giữa nhu cầu thị trường và năng lực nhân lực”, ông Khoa đề xuất.

Nghị quyết số 57/NQ-TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt mục tiêu: đến năm 2030, Việt Nam vào top 3 ASEAN, top 50 toàn cầu về năng lực cạnh tranh số và phát triển chính phủ điện tử; năm 2030 tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến; năm 2045 tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến.

Phân tích từ góc nhìn thị trường, ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh chỉ ra, hiện chính sách mới chỉ tập trung vào bên cung, tức là hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, công nghệ, nguồn lực, lao động kỹ năng cao và thu hút nhân tài, còn bên cầu (tức thị trường, nơi doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác) lại chưa được chú trọng đúng mức. Vì vậy,  cần tạo động lực đặc biệt cho phía cầu để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ số.

Theo đó, ông Võ Trí Thành đề xuất nhóm giải pháp chính sách. Cụ thể là, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh, bình đẳng và minh bạch nhất có thể; có chính sách để tạo thêm thị trường, tạo “cầu” cho doanh nghiệp; có chính sách kết nối cung - cầu, hỗ trợ start-up, doanh nghiệp vừa và nhỏ đưa sản phẩm ra thị trường; xây dựng các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo...

Từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, ông Đoàn Mạnh Hà, Giám đốc điều hành Bkav AI khuyến nghị, Chính phủ cần có chính sách kích cầu, đầu tư, hỗ trợ kinh phí một phần để doanh nghiệp tự tin hơn trong triển khai ứng dụng AI.

Ngoài ra, một trong những rào cản đối với doanh nghiệp là khó tiếp cận nguồn dữ liệu. Vì vậy, Bkav kiến nghị Nhà nước có chính sách “mở dữ liệu”. Theo đó, những dữ liệu không nhạy cảm, không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hoặc quyền riêng tư cá nhân có thể công khai để doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng trong phát triển AI.

Theo ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số (Bộ Khoa học và Công nghệ), về chính sách, có 2 định hướng quan trọng. Thứ nhất, là nâng cao năng lực của doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích doanh nghiệp “máu lửa” và năng động hơn. Thứ hai, việc hỗ trợ các doanh nghiệp không phải bằng cách “chọn người thắng” mà là “hỗ trợ người thắng”.

“Nhà nước không chọn sẵn doanh nghiệp nào sẽ thành công, mà tạo điều kiện để những doanh nghiệp có hiệu quả được phát triển, qua đó lan tỏa lợi ích đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các dự án, mua sắm công và kết nối thị trường. Đây là tinh thần cốt lõi của Nghị quyết số 57/NQ-TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW, nhằm tạo động lực để doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ tham gia, mà còn dẫn dắt trong một số lĩnh vực”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư