Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 27 tháng 04 năm 2024,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua
Kênh đầu tư nóng năm 2024; Sớm sửa Nghị định 24/2012/NGĐ-CP về quản lý vàng
T.L - 07/01/2024 09:20
 
Đâu là kênh đầu tư "nóng" năm 2024, nắn vốn vào nhà giá rẻ, lãi vay giảm chậm, sớm sửa quy định về quản lý thị trường vàng... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Nắn vốn chảy vào sản xuất và nhà giá rẻ

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định, sẽ có những giải pháp chặn tín dụng sân sau, nắn vốn chảy vào sản xuất - kinh doanh và nhà giá rẻ, nhà ở xã hội.

Ngày 8/1, ngành ngân hàng sẽ tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024. Khác với các năm trước, năm nay, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% cho các tổ chức tín dụng ngay từ đầu năm nhằm thúc đẩy tổng cầu. Như vậy, các ngân hàng có dư địa bơm 2 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Bất động sản được dự báo vẫn là lĩnh vực thu hút tín dụng nhiều nhất.

Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú khẳng định, năm 2023, ngành ngân hàng dồn lực cả về tháo gỡ cơ chế chính sách lẫn triển khai để hỗ trợ thị trường bất động sản, đặc biệt là phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp. Năm 2024, ngành ngân hàng tiếp tục hướng đến hỗ trợ phân khúc nhà ở này.

Báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho thấy, tính đến cuối năm 2023, dư nợ tín dụng bất động sản đạt 2,75 triệu tỷ đồng, tăng 6,75%. Đáng lưu ý, tín dụng kinh doanh bất động sản tăng mạnh 22% và chiếm 36% tổng dư nợ tín dụng bất động sản; tín dụng tiêu dùng bất động sản giảm nhẹ 0,7%, chiếm 64%. Điều này cho thấy, người dân vẫn e ngại vay mua nhà, dù lãi suất đã hạ nhiệt.

Theo bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, đối với giải ngân gói 120.000 tỷ đồng cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội, tính tới cuối tháng 11/2023, các ngân hàng đã cam kết cấp tín dụng cho 12 Dự án, với tổng số tiền cam kết là 5.000 tỷ đồng, số tiền giải ngân đạt hơn 400 tỷ đồng.

Lãi suất cho vay đã hạ nhiệt nhanh trong năm 2023, song vẫn còn cao hơn mức đáy quý IV/2021, thu nhập người dân sụt giảm trong khi giá nhà liên tục tăng cao, thị trường thiếu vắng phân khúc nhà ở giá hợp lý được coi là những nguyên nhân chính khiến cho vay mua nhà của cá nhân sút giảm.

Dù vậy, các chuyên gia phân tích kỳ vọng, nhu cầu mua nhà sẽ được kích thích trở lại từ nửa cuối năm nay nhờ môi trường lãi suất thấp. “Các doanh nghiệp bất động sản sẽ tiến hành giảm giá các sản phẩm, nhằm tiếp cận gần hơn người mua, thay vì ưu tiên lợi nhuận nhằm khơi thông dòng tiền, khi các chính sách đang nới lỏng hơn trước. Điều này giúp kích thích tín dụng cho ngành bất động sản”, chuyên gia phân tích của Công ty cổ phần chứng khoán MB (MBS) nhận định.

Vấn đề giảm giá nhà, cơ cấu lại phân khúc bất động sản đã được Thủ tướng Chính phủ yêu cầu nhiều lần. Ngành ngân hàng cũng nhiều lần phê phán doanh nghiệp bất động sản thiếu sòng phẳng, khư khư giữ giá nhà cao, rồi đòi cả nền kinh tế hỗ trợ. Trong khi đó, doanh nghiệp bất động sản khẳng định, chi phí giá nhà cao là bởi loạt “chi phí không tên”.

Dù chưa thực sự tìm được tiếng nói chung, song thực tế, ngân hàng và bất động sản đang có mối quan hệ cộng sinh, dư nợ cho vay bất động sản chiếm khoảng 21% tổng dư nợ toàn ngành. Tuy vậy, điều chắc chắn là dòng vốn chảy vào bất động sản năm 2024 sẽ được chọn lọc cẩn thận hơn.

 “Năm 2024 là năm hành động quyết liệt, bởi năm nay được dự báo là năm có nhiều khó khăn phải đối mặt, song cũng là cơ hội để vượt qua khó khăn”, Phó thống đốc Đào Minh Tú khẳng định.

Một trong những hành động quyết liệt là sẽ tập trung kiểm soát tín dụng sân sau, kiểm soát việc dồn vốn cho một số tập đoàn, doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu).

Trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, NHNN đặc biệt ưu tiên lĩnh vực nông nghiệp, với 18 cơ chế đang được triển khai. Hiện dư nợ cho vay lĩnh vực này chiếm khoảng 25% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Đây cũng là lĩnh vực hấp thụ vốn hiệu quả. Đơn cử, gói tín dụng 15.000 tỷ đồng cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản đã giải ngân hết 11.000 tỷ đồng. Dự kiến, khi gói này được triển khai hết, các ngân hàng sẽ tiếp tục gia tăng hạn mức.  

Bên cạnh thúc đẩy tín dụng, điều khiến doanh nghiệp và ngân hàng lo lắng nhất hiện nay là nợ xấu có thể tăng cao sau tháng 6/2024, khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu nợ, không chuyển nhóm nợ hết hiệu lực. Thông tư này chấm dứt sẽ khiến nhiều doanh nghiệp có nguy cơ chuyển nhóm nợ, trong khi nợ xấu tại nhiều ngân hàng sẽ vọt tăng.

Số liệu của NHNN cho thấy, nợ xấu nội bảng tính tới cuối năm 2023 lên tới 4,95%, nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và nợ có nguy cơ trở thành nợ xấu là rất lớn.  

“Nếu đến thời điểm 30/6/2024, doanh nghiệp và nền kinh tế vẫn cần Thông tư 02/2023/TT-NHNN, thì chúng tôi sẽ nghiên cứu để tiếp tục kéo dài thêm. Việc sửa đổi Thông tư này sẽ trên cơ sở hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, song phải kiểm soát được bản chất nợ xấu, tránh tình trạng nợ xấu âm ỉ trong nền kinh tế, song không được phản ánh đầy đủ, khách quan”, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết.

Việc gia hạn Thông tư 02/2023/TT-NHNN là mong mỏi của doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại. Dù vậy, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, điều này cũng đặt thêm thách thức cho ngành ngân hàng trong bối cảnh tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém chưa xong, xử lý sở hữu chéo chưa dứt điểm, kinh tế toàn cầu diễn biến phức tạp, hệ thống ngân hàng đối diện tiềm ẩn rủi ro, nợ xấu tăng cao.

Theo các chuyên gia, nên kéo dài Thông tư 02/2023/TT-NHNN thêm một năm nữa trên cơ sở đánh giá thật kỹ đối tượng được áp dụng theo hướng doanh nghiệp nào có khả năng phục hồi thì mới giãn nợ, thậm chí có thể cho vay mới. Tất nhiên, cùng với sự hỗ trợ của ngành ngân hàng, cần có sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, thì mới có thể giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Trường hợp doanh nghiệp không có khả năng phục hồi thì kiên quyết không cơ cấu nợ, chuyển nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ.

 Phó thống đốc Đào Minh Tú: Thị trường bất động sản "nóng" quá hay "lạnh" quá đều tác động tiêu cực tới ngân hàng

Phó thống đốc Đào Minh Tú khẳng định, NHNN chưa bao giờ chủ trương “thắt” tín dụng bất động sản bởi nếu không quan tâm đến thị trường bất động sản, ngân hàng là ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên.

Phát biểu tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 của VietinBank tổ chức sáng 6/1, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, năm 2023 là năm “rất đặc thù”, xét ở nhiều góc độ thị trường.

Thứ nhất, thị trường bất động sản trong nước chưa bao giờ trầm lắng như năm qua, một phần do cơ cấu phân khúc và cung – cầu không phù hợp, một phần do nhiều Dự án không đầy đủ pháp lý để triển khai. Trong bối cảnh thị trường bất động sản trầm lắng, nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân là do NHNN thắt chặt tín dụng bất động sản, song thực tế không phải như vậy.

“Chúng tôi đã nhiều lần khẳng định, NHNN chưa bao giờ khẳng định thắt tín dụng bất động sản, ngược lại luôn nhấn mạnh phải quan tâm đến thị trường bất động sản, bởi nếu không quan tâm tới thị trường bất động sản thì ngành ngân hàng chịu ảnh hưởng đầu tiên. Nếu thị trường bất động sản bong bóng thì ngân hàng sẽ hứng nợ xấu lớn, như bài học cách đây 11-12 năm mà đến nay nhiều ngân hàng thương mại vẫn chưa xử lý hết nợ xấu. Ngược lựi, nếu thị trường bất động sản trầm lắng như vài năm qua thì ngân hàng cũng rất khó khăn: tín dụng không tăng được, vốn không quay vòng được, đặc biệt là khi cho vay bất động sản chiếm tới hơn 20% tổng dư nợ nền kinh tế, tài sản thế chấp của ngân hàng cũng hầu hết là bất động sản. Đây cũng là lý do năm 2023, NHNN đã ban hành nhiều văn bản, tổ chức nhiều hội nghị tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và thị trường bất động sản”, Phó Thống đốc phân trần.

Thứ hai, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) - kênh huy động vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp - đang chững lại. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp để có vốn đáo hạn TPDN, để bù đắp nguồn vốn thiếu hụt do không thể huy động TPDN đã tìm đến ngân hàng, làm gia tăng áp lực lên kênh tín dụng ngân hàng. Trong bối cảnh đó, NHNN phải bản lĩnh, vững vàng lập trường. Bởi nếu để ngân hàng “gánh” phần TPDN là đồng nghĩa chấp nhận rủi ro do lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, là đồng nghĩa chấp nhận một số doanh nghiệp phát hành TPDN không đúng trước đây.  

“Quan điểm của NHNN là hỗ trợ doanh nghiệp, bởi nếu doanh nghiệp chết thì ngân hàng sống với ai. Song vẫn phải giữ lập trường vững vàng, nếu không các ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro trong tương lai”, Phó thống đốc khẳng định.

Thứ ba, về lãi suất, năm 2023, nhiều nước trên thế giới tăng mạnh lãi suất song Việt Nam đã nới lỏng tiền tệ ngay từ đầu năm với 4 lần hạ lãi suất điều hành. Đặc biệt, trong 6 tháng cuối năm, lãi suất hạ rất mạnh, một phần do ý thức chia sẻ trách nhiệm của ngành ngân hàng với nền kinh tế, một phần xuất phát từ quy luật cung cầu (ngân hàng ế vốn). Hiện lãi suất huy động trung bình chỉ còn 4,4-4,6%/năm, thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây.

Thứ tư, nợ xấu và xử lý ngân hàng yếu kém là vấn đề nhức nhối. Sự kiện SCB diễn ra tháng 10/2022 đến nay vẫn là vấn đề lớn đòi hỏi phải giải quyết, chưa kể 3 ngân hàng mua lại bắt buộc đến nay vẫn đang trong quá trình xử lý.

Thêm vào đó, tỷ lệ nợ xấu đang tăng rất cao. “Tôi nhớ, thời điểm Thống đốc Nguyễn Văn Bình vừa nhậm chức (năm 2011), nợ xấu khi đó là 12-13%, là sau khi bong bóng bất động sản vỡ, con số này làm cả xã hội giật mình. Hơn 10 năm qua, nhờ sự nỗ lực của toàn hệ thống, cộng thêm sự hỗ trợ của Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu mới giảm. Tuy nhiên, chu kỳ mới của nợ xấu đang lặp lại, nguyên nhân một phần do một số ngân hàng yếu kém, một phần do ngày càng nhiều doanh nghiệp khó khăn, không trả được nợ. Nợ xấu là của doanh nghiệp, của cả nền kinh tế, không phải do bản than các ngân hàng làm ra, song đối mặt với nợ xấu là chính các ngân hàng”, Phó Thống đốc cho hay.

Nêu ra các khó khăn của nền kinh tế, lãnh đạo NHNN khẳng định, các ngân hàng phải góp phần cùng NHNN thực hiện các chủ trương lớn, đặc biệt là ổn định kinh tế vĩ mô.

Bên cạnh đó, phải dứt khoát phải tập trung cung ứng vốn cho nền kinh tế, làm sao giúp doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn. Đây vừa là trách nhiệm chung với nền kinh tế và trách nhiệm với chính bản than các ngân hàng, bởi nếu không có khách vay vốn và gửi tiền thì ngân hàng cũng không thể tồn tại. Mỗi cán bộ ngân hàng phải coi khách hàng là thượng đế.

Phó Thống đốc nhắc nhở, trong hệ thống ngân hàng đâu đó vẫn còn hiện tượng một số cán bộ ngân hàng chưa đồng cảm với khách hàng, vẫn chỉ tập trung nhìn vào lãi suất mà chưa quan tâm chia sẻ, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó. Vì vậy, các ngân hàng phải hòa cùng doanh nghiệp, đứng cùng doanh nghiệp, chung vốn làm ăn với doanh nghiệp. Tất nhiên, thông điệp đưa ra là phải tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp song vẫn không được hạ chuẩn tín dụng. Ngân hàng thúc đẩy cho vay song vẫn phải thu hồi được nợ, hạ lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp song không để xảy ra thua lỗ, gây mất an toàn hệ thống. 

Kỳ vọng sớm sửa Nghị định 24 về quản lý thị trường vàng

Sau hơn 10 năm kể từ khi ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng, đến nay được đánh giá đã phát huy tác dụng, nhưng cần thiết sửa đổi để phù hợp với thị trường.

Thống đốc ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Quyết định 02 sửa đổi, bổ sung Quyết định 1623/QĐ-NHNN ngày 23/8/2012 về việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng.

Quyết định 02 có hiệu lực kể từ ngày 2/1/2024. Quyết định 02 sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến thành phần tham gia Tổ giám sát gia công vàng miếng, và bổ sung trách nhiệm của một số đơn vị thuộc ngân hàng Nhà nước trong công tác tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của ngân hàng Nhà nước.

Thống đốc ủy quyền cho Vụ trưởng Vụ Kiểm toán nội bộ ký Quyết định thành lập Tổ giám sát của ngân hàng Nhà nước để giám sát việc gia công vàng miếng từ vàng nguyên liệu. Trách nhiệm của Chi cục Quản trị tại TP.HCM và Chi cục Phát hành Kho quỹ, gửi danh sách cán bộ tham gia Tổ giám sát gia công vàng miếng từ vàng nguyên liệu của ngân hàng Nhà nước cho Vụ Kiểm toán nội bộ.

Đồng thời thực hiện các nhiệm vụ theo quy định, quy chế giám sát hoạt động gia công vàng miếng SJC từ vàng nguyên liệu của ngân hàng Nhà nước và Quy chế quản lý khuôn sản xuất vàng miếng, máy dập vàng miếng và giám sát hoạt động gia công vàng miếng SJC từ vàng nguyên liệu không phải của ngân hàng Nhà nước.

Vụ Kiểm toán nội bộ có trách nhiệm làm đầu mối xây dựng và trình Thống đốc phê duyệt Quy chế giám sát hoạt động gia công vàng miếng SJC từ vàng nguyên liệu của ngân hàng Nhà nước. Ban hành Quyết định thành lập Tổ giám sát gia công vàng miếng từ vàng nguyên liệu của ngân hàng Nhà nước. Đồng thời xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra công tác giám sát hoạt động gia công vàng miếng SJC của Tổ giám sát hoạt động gia công vàng miếng từ vàng nguyên liệu của ngân hàng Nhà nước.

Trước đó, ngày 28.12.2023, ngân hàng Nhà nước đã có Công văn số 10064 về việc tuân thủ pháp luật về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Công văn yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức kinh doanh kim khí quý, đá quý bao gồm các công ty kinh doanh vàng, các công ty trung gian thanh toán.

Đánh giá về động thái trên của ngân hàng Nhà nước, ông Huỳnh Trung Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội kinh doanh Vàng Việt Nam (VGTA) cho rằng, đây là bước chuẩn bị để ngân hàng Nhà nước nhập nguyên liệu về gia công vàng miếng SJC nhằm tăng nguồn cung cho thi trường.

"Quyết định 02 chỉ là một bước nhỏ về mặt thu tục để có thể can thiệp thì trường nhằm giảm chênh lệch giá thôi. Còn việc sửa đổi Nghị định 24 như thế nào mới quan trọng", ông Khánh nói và cho biết, Hiệp hội cũng có đề xuất xuất ngân hàng Nhà nước cho phép lưu hành một vài thương hiệu vàng miếng khác như: PNJ ,DOJI, thay vì chỉ có SJC để tăng tính cạnh tranh về mặt giá cả  và đa dạng hoá nguồn cung.

Trước đó, phát biểu tại buổi họp báo ngày 3/1 về việc triển khai nhiệm vụ ngân hàng 2024, Phó thống đốc Đào Minh Tú cung cho hay, Nghị định 24 đã phát huy được vai trò vô cùng quan trọng, đó là kiểm soát được thị trường vàng và ổn định tỷ giá, lãi suất, vì vàng có quan hệ với tỷ giá, lãi suất. Tuy nhiên, đến nay, cần thiết phải sửa đổi để phù hợp hơn trước diễn biến thị trường vàng hiện nay và đáng ra phải sửa đổi sớm hơn.

Về vàng miếng thương hiệu SJC do ngân hàng Nhà nước kiểm soát, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho rằng, Nhà nước không bảo hộ giá cả vàng miếng cũng như các doanh nghiệp kinh doanh vàng, nhưng chúng ta phải làm sao để đảm bảo được quyền lợi của người dân, không thể để giá vàng trong nước quá cao so với thế giới. Hay nói cách khác, dù nhiều thương hiệu vàng miếng hay không thì mục tiêu cuối cùng là phải ổn định thị trường vàng miếng, đảm bảo quyền lợi của người dân.

Ông Đào Xuân Tuấn, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối cho hay, qua theo dõi thực tế thị trường, tham khảo ý kiến từ Hiệp hội Kinh doanh vàng, trong tháng 1/2024, ngân hàng Nhà nước sẽ có báo cáo cụ thể về kết quả thực hiện Nghị định 24 và kiểm soát thị trường vàng trong thời gian qua.

Tuy nhiên, ông Tuấn cũng cho rằng, việc thực hiện Nghị định 24 đã đạt được những kết quả nhất định, kiểm soát được thị trường vàng và tỷ giá. Nghị định 24 được ban hành năm 2012 giúp ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ điều hành tỷ giá và chính sách tiền tệ. Dù giá vàng tăng giảm thất thường, song tỷ giá vẫn ổn định, mọi hoạt động của ngành ngân hàng cũng không còn bị ảnh hưởng bởi thị trường vàng.

Thị trường kỳ vọng sớm sửa Nghị định 24 và xóa độc quyền vàng miếng. Chỉ đạo của Thủ Tướng cũng yêu cầu phải báo cáo trong tháng 1/2024. Nhưng giới phân tích đưa ra nhận định, khả năng sẽ không kịp cho việc sửa đổi Nghị định 24, vì còn phải lấy ý kiến các bộ, ban ngành trước khi trình Thủ tướng ký ban hành.

Nhưng trước mắt, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, mong NHNN sẽ sớm tăng nguồn cung vàng miếng để kéo giá vàng SJC về gần với giá thế giới theo nhu chỉ đạo của Thủ tướng và sớm sửa đổi Nghị định 24 để thị trường vàng Việt Nam có thể liên thông với thị trường vàng khu vực và thế giới.

Lãi vay giảm chậm hơn lãi huy động, ngân hàng lý giải nguyên nhân

Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ (ngân hàng Nhà nước) cho biết, lãi suất qua đêm giữa các ngân hàng hiện đang rất thấp ở mức  0,2 - 0,3%, tạo điều kiện rất tốt để các tổ chức tín dụng có dư địa cho vay với lãi suất thấp.

Trên thị trường dân cư, lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng thương mại tại các giao dịch mới phát sinh ở mức 3,9%/năm, lãi suất cho vay bình quân tại các giao dịch mới phát sinh ở mức 6,7%/năm, giảm trên 2% so với thời điểm cuối năm 2022. Lãi suất huy động và cho vay tại các ngân hàng ở thời điểm hiện tại đang thấp hơn khá xa so với trước đại dịch Covid-19.

Mặc dù vậy, lãi suất cho vay đang giảm chậm hơn so với lãi suất huy động. Giải thích về thực trạng này, ông Phạm Chí Quang cho biết, trong thời gian qua, mặt bằng lãi suất huy động giảm nhanh chóng, hiện tại bình quân lãi suất huy động tại các giao dịch mới phát sinh chỉ ở mức 3,9%/năm. Có đến 80% nguồn vốn của các ngân hàng thương mại hiện nay đến từ ngắn hạn, 20% đến từ trung và dài hạn. Trong khi đó, trên 50% dư nợ tín dụng do trung và dài hạn. 

“Dù lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại có xu hướng giảm trong thời gian dài qua nhưng 50% dơ nợ tín dụng lại nằm ở cho vay trung và dài hạn - đồng nghĩa với kỳ điều chỉnh lãi suất dài (thường là 12-20 tháng) – nên giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn có độ trễ rất xa xo với lãi suất huy động”, ông Quang nói.  

Trao đổi thêm về câu chuyện lãi suất, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước - ông Đào Minh Tú khẳng định, lãi suất cho vay đang thấp nhất trong vòng 20 năm qua và nhiều ngân hàng thương mại cho biết lãi suất không thể thấp hơn được nữa. Hiện tại còn rơi rớt lại những khoản lãi suất cao là của những kỳ hạn trước đây khi ngân hàng thương mại huy động với lãi suất cao. Nhưng chắc chắn rằng đến năm 2024 sẽ không còn duy trì được mức này nữa.   

Theo các chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán VCBS, mặt bằng lãi suất kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm thêm khoảng 1 - 1,5% trong năm 2024. Tính tới cuối quý III/2023, lãi suất cho vay trung bình ghi nhận trên báo cáo tài chính các ngân hàng niêm yết giảm khoảng 0,6% từ mức đỉnh quý I/2023, tuy nhiên vẫn cao hơn 1,6% so với mức đáy quý IV/2021.

Sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động giảm nhanh và lãi suất cho vay thực tế đã ghi nhận giảm khoảng 2 - 2,5% tại các khoản vay phát sinh mới, tuy nhiên lãi suất dành cho các khoản vay hiện hữu vẫn ở ngưỡng cao khoảng trên 10%/năm do có độ trễ 3 - 6 tháng so với lãi suất huy động và có sự phân hóa về mức độ giảm giữa các ngành nghề.

Nhà nước không bảo hộ giá vàng, song cũng không chấp nhận vàng một mình một chợ

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, nhà nước không chấp nhận sự chênh lệch giá quá lớn giữa vàng trong nước và quốc tế, giữa vàng SJC và các loại vàng miếng khác. Tất cả vấn đề này sẽ được xem xét trong sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP sắp tới.

Ông Đào Xuân Tuấn, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối (ngân hàng Nhà nước) khẳng định, đây là thời điểm phù hợp để đánh giá lại mục tiêu và chính sách quản lý thị trường vàng.

Theo ông Tuấn, Nghị định 24/2012/NĐ-CP được ban hành năm 2012 giúp ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ điều hành tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy, hơn chục năm qua, dù giá vàng tăng giảm thất thưởng song tỷ giá vẫn ổn định, mọi hoạt động của ngành ngân hàng cũng không còn bị ảnh hưởng bởi thị trường vàng.

“Đây là cơ sở chứng minh mục tiêu Nghị định 24 cơ bản hoàn thành. Đến nay, cần xem xét tình hình mới để có những điều chỉnh phù hợp”, ông Tuấn khẳng định.

Trước các ý kiến đề nghị xem xét trả lại vàng cho thị trường, ông Tuấn cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã tham khảo ý kiến các chuyên gia, hiệp hội, bộ ngành và đã được Chính phủ giao ngay trong tháng 1/2024 có báo cáo tổng kết đánh giá chính sách quản lý thị trường vàng và trình Chính phủ định hướng, phê duyệt chủ trương thay đổi chính sách phù hợp tình hình mới.  

Liên quan đến vấn đề này, Phó thống đốc Đào Minh Tú nói thêm, mục tiêu của Nghị định 24 là chống vàng hóa nền kinh tế, không ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, việc sửa Nghị định 24 là cần thiết, vì Nghị định này đã ra đời cách đây 11 năm, có vai trò lịch sử nhất định song điều kiện kinh tế - xã hội cũng đã thay đổi.

Liên quan đề xuất bỏ độc quyền vàng miếng SJC theo quy định của Nghị định 24, Phó thống đốc cho hay, dù nhiều loại vàng hay không thì mục tiêu cuối cùng là phải ổn định thị trường vàng miếng, đảm bảo quyền lợi của 100 triệu dân. Quyền lợi của nhóm doanh nghiệp kinh doanh vàng rất nhỏ, Nhà nước không bảo hộ giá cả vàng miếng, song luôn tôn trọng quyền mua bán, bảo quản, cất trữ vàng của người dân.

“Nhà nước không khuyến khích kinh doanh vàng miếng, không bảo hộ giá cả vàng miếng. Tuy nhiên, cũng không chấp nhận được sự chênh lệch giá quá lớn giữa vàng trong nước và quốc tế, giữa vàng SJC và các loại vàng miếng khác. Tất cả vấn đề này sẽ được xem xét trong sửa đổi Nghị định 24 sắp tới. Hướng sửa đổi ra sao để vừa đảm bảo quản lý, vừa đảm bảo tính thị trường thì thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai và sẽ xin ý kiến rộng rãi”, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết.   

Giá vàng trong nước diễn biến bất thường cuối năm 2023, có thời điểm giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới gần 20 triệu đồng/lượng, chênh lệch mua vào - bán ra được kéo doãng tới 3 triệu đồng/lượng.

Trước tình hình này, ngày 27/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện 1426/CĐ-TTg ngày 27/12/2023 về các giải pháp quản lý thị trường vàng. 

Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát diễn biến giá vàng thế giới và trong nước để khẩn trương thực hiện ngay các giải pháp theo quy định để bình ổn thị trường vàng.

Khẩn trương có giải pháp hiệu quả để quản lý, điều hành giá vàng miếng trong nước theo nguyên tắc thị trường, không để tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và vàng quốc tế ở mức cao như thời gian qua ảnh hưởng tiêu cực đến điều hành kinh tế vĩ mô, báo cáo kết quả thực hiện trong tháng 1/2024.

Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát chặt chẽ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng và các chủ thể khác tham gia thị trường; kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập để xử lý chủ động, tích cực, hiệu quả theo thẩm quyền và báo cáo những vấn đề vượt thẩm quyền, đề xuất cấp thẩm quyền biện pháp xử lý phù hợp, đúng quy định…

Thủ tướng cũng giao Ngân hàng Nhà nước đánh giá tổng thể, toàn diện về tình hình thị trường vàng trong nước và công tác quản lý nhà nước về thị trường vàng, bao gồm cả các nội dung về sản xuất, kinh doanh vàng miếng, vàng thương hiệu SJC, vàng trang sức... Rà soát khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức..., đồng thời tổng kết thực hiện Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng để kịp thời đề xuất cấp thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công cụ quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, phát triển thị trường minh bạch, lành mạnh, hiệu quả và bền vững, hoàn thành trong tháng 1/2024.

Mặc dù giá vàng hạ nhiệt nhanh sau công điện của Thủ tướng và thông điệp sẵn sàng can thiệp thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước, song những ngày đầu năm 2024, giá vàng vẫn diễn biến rất thất thường, liên tục tăng sốc, giảm sâu trong ngày bất chấp giá vàng thế giới gần như đứng im.

Hôm nay (3/1), Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn niêm yết vàng miếng SJC ở mức 72 - 75 triệu đồng/lượng mua vào - bán ra. Mức giá này giảm 1 triệu đồng/lượng so với chốt phiên giao dịch chiều 2/1, nhưng lại tăng 1 triệu đồng so với sáng 2/1. Chênh lệch mua vào - bán ra tại các doanh nghiệp vàng lên tới 3-3,75 triệu đồng/lượng.  

Siết sở hữu chéo sẽ làm thu hẹp thị phần tín dụng và lợi nhuận nhóm ngân hàng nhỏ

Thị phần tín dụng nhóm ngân hàng TMCP tư nhân tăng từ mức 40% năm 2017 lên 47% (tính đến quý III/2023). Đặc biệt, nhóm ngân hàng tư nhân lớn có tỷ trọng đóng góp lợi nhuận lên đến gần 30%, trong khi chỉ chiếm 18% thị phần tín dụng.

Công ty chứng khoán VCBS vừa công bố báo cáo về ngành ngân hàng.

Các chuyên gia phân tích VCBS nhận định, tín dụng năm 2023 có thể tăng 12%. Tốc độ tăng trưởng 12% có thể tiếp tục duy trì trong năm 2024.

Về lãi suất, dự đoán mặt bằng lãi suất kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm thêm khoảng 1 - 1,5% trong năm 2024. Tính tới cuối quý III/2023, lãi suất cho vay trung bình ghi nhận trên báo cáo tài chính các ngân hàng niêm yết giảm khoảng 0,6% từ mức đỉnh quý I/2023, tuy nhiên vẫn cao hơn 1,6% so với mức đáy quý IV/2021.

Sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động giảm nhanh và lãi suất cho vay thực tế đã ghi nhận giảm khoảng 2 - 2,5% tại các khoản vay phát sinh mới, tuy nhiên lãi suất dành cho các khoản vay hiện hữu vẫn ở ngưỡng cao khoảng trên 10%/năm do có độ trễ 3 - 6 tháng so với lãi suất huy động và có sự phân hóa về mức độ giảm giữa các ngành nghề.

Nhóm ngân hàng thương mại tư nhân ghi nhận mức lãi suất cho vay giảm mạnh hơn nhóm ngân hàng quốc doanh do hạ lãi suất đầu ra để thu hút khách hàng sau khi kết thúc giai đoạn khó khăn về thanh khoản, cùng với việc các khoản cho vay chậm trả lãi có xu hướng gia tăng. Dự kiến lãi suất cho vay của nhóm ngân hàng này giảm chậm lại trong thời gian tới khi khách hàng quay lại trả nợ.

Kỳ vọng cho vay mua nhà sẽ dẫn dắt tăng trưởng tín dụng bán lẻ trong thời gian tới khi lãi suất hạ nhiệt và thị trường bất động sản dần hồi phục từ nửa cuối năm 2024 nhờ nhu cầu mua nhà để ở thực vẫn ở mức cao và một phần nhu cầu đầu tư tài sản tăng trở lại.  

Dự báo tín dụng bất động sản và xây dựng tiếp tục tăng nhanh, tuy nhiên sẽ có sự phân hóa về khả năng tiếp cận vốn giữa các phân khúc và doanh nghiệp trên thị trường, theo đó tập trung vào phân khúc bất động sản bình dân phục vụ nhu cầu ở thực, bất động sản khu công nghiệp và xây dựng hạ tầng giao thông. Tuy nhiên, một phần tín dụng được giải ngân cho các doanh nghiệp bất động sản gặp khó khăn về tài chính với mục đích tái cấu trúc nợ, đây sẽ là yếu tố cần theo dõi trong thời gian tới.

Theo VCBS, trong suốt chu kỳ nới lỏng tiền tệ duy trì trong các năm trước, thị phần tín dụng của các ngân hàng tư nhân liên tục cải thiện từ mức 40% năm 2017 lên 47% tính đến quý III/2023. Đặc biệt, nhóm ngân hàng tư nhân lớn với mô hình hoạt động hiệu quả có tỷ trọng đóng góp lợi nhuận lên đến gần 30% trong khi chỉ chiếm 18% thị phần tín dụng.

Trong bối cảnh nền kinh tế suy yếu và rủi ro nợ xấu tăng cao, nhóm ngân hàng quốc doanh giảm nhẹ triển vọng lợi nhuận khi phải duy trì quản trị rủi ro chặt chẽ, đảm bảo chất lượng tài sản ổn định, đồng thời dành nguồn lực hỗ trợ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của ngân hàng Nhà nước (giảm lãi suất, tái cơ cấu các ngân hàng yếu kếm…).

Tuy nhiên, việc tăng hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát và các giải pháp đối với các vấn đề tồn tại liên quan đến sở hữu chéo, cho vay sân sau dự kiến sẽ thu hẹp thị phần tín dụng và lợi nhuận nhóm ngân hàng tư nhân quy mô trung bình - nhỏ.

Nợ xấu vẫn là câu chuyện đáng lưu ý của hệ thống ngân hàng năm 2024 tuy vẫn trong tầm kiềm soát nhờ các thông tư và chính sách hỗ trợ và khách hàng quay lại trả nợ khi áp lực chi phí lãi vay giảm bớt. Trong kịch bản Thông tư 02/2023/TT-NHNN không được gia hạn, dự báo tỷ lệ nợ xấu toàn ngành (loại trừ SCB và các ngân hàng chuyển giao bắt buộc) tăng nhanh khi nợ tái cơ cấu tới thời hạn trả, tỷ lệ nợ tái cơ cấu sẽ giảm kể từ quý II/2024, tuy nhiên có sự phân hóa.

Theo đó, nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải.  Nhóm ngân hàng có tỷ trọng tín dụng doanh nghiệp cao và có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ xấu và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024 - 2025.

Dự báo, lợi nhuận tiếp tục có sự phân hóa mạnh trong năm 2024, với mức tăng trưởng 10%, một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm.

Trên cơ sở triển vọng ngành, VCBS đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường, định giá P/B toàn ngành hiện thấp hơn khoảng 15% so với mức trung bình 5 năm. Nhóm cổ phiếu có thể xem xét đầu tư trong dài hạn là các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và duy trì tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành.

Dòng tiền sẽ dịch chuyển

Năm 2024, vị thế các kênh đầu tư sẽ phụ thuộc rất lớn vào sự xoay trục chính sách tiền tệ của các nước lớn, tâm điểm là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).

Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, CEO AFA Capital, năm 2024 sẽ là năm chính sách tiền tệ của các nước lớn xoay trục. Theo đó, nhiều khả năng Fed, ECB đều quay đầu hạ lãi suất. Sự xoay trục chính sách của các nước lớn sẽ tác động đến tất cả các kênh đầu tư, buộc nhà đầu tư phải thận trọng theo dõi sát sao.

Cùng chung quan điểm, ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn đầu tư của Maybank Investment Bank cho rằng, hành động của Fed, ECB, sức mạnh của USD sẽ là tâm điểm thị trường năm 2024. Ngoài ra, chính sách tài khóa của các quốc gia, căng thẳng địa chính trị, an ninh năng lượng... cũng là các yếu tố mà nhà đầu tư cần quan tâm.

Với hành động của các nước lớn, nhiều khả năng lãi suất trong nước năm 2024 sẽ tiếp tục được duy trì ở mặt bằng thấp, hỗ trợ thị trường tài chính, áp lực tỷ giá cũng giảm. Bên cạnh đó, lãi suất của Fed giảm cũng sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các thị trường tài chính mới nổi như Việt Nam.  

Trong bối cảnh chính sách vĩ mô trong nước và thế giới nhiều biến động, vị thế các kênh đầu tư “vua” năm 2024 dự kiến cũng có nhiều thay đổi. Xét về hiệu suất đầu tư, nếu gửi tiết kiệm được coi là kênh đầu tư tốt nhất năm 2022 vì vừa an toàn, vừa sinh lời cao trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đều đi xuống (lãi suất tiết kiệm có thời điểm lên tới 10-12%/năm), thì năm 2023, tiết kiệm trở thành kênh đầu tư sinh lời gần như thấp nhất (lãi suất kỳ hạn 1 tháng chỉ còn 1,9%/năm, kỳ hạn 12 tháng là 4,8%/năm).

Trong khi đó, vàng trở thành kênh đầu tư hấp dẫn nhất năm 2023 với mức tăng giá gần 18% (vàng miếng SJC). Tuy vậy, nhìn về diễn biến dòng tiền, có thể thấy, nhà đầu tư vẫn có xu hướng nắm giữ tiền mặt, bất chấp lãi suất thấp, chủ yếu do thị trường vàng đầy rủi ro, các kênh đầu tư khác đều kém hấp dẫn.

Theo các chuyên gia kinh tế, dù lãi suất tiền gửi kém hấp dẫn, song dòng tiền vẫn đổ dồn vào ngân hàng, nguyên nhân là các kênh đầu tư khác đều có độ rủi ro lớn (chứng khoán, bất động sản, vàng) đều rủi ro lớn, ngoại tệ sinh lời thấp. “Trong bối cảnh lòng tin của thị trường đang suy giảm khá mạnh, thị trường trái phiếu và bất động sản “đóng băng”, gửi tiết kiệm và mua vàng là 2 kênh đầu tư được lựa chọn”, TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định.

Nói cách khác, tiền gửi tiết kiệm vẫn là “hầm trú ấn” của nhà đầu tư trong năm 2023 và cả năm 2024. Nếu nền kinh tế chưa khởi sắc, thị trường tài chính và bất động sản còn bất bênh, ngân hàng vẫn là kênh hút tiền gửi. Chỉ khi nền kinh tế khởi sắc, dòng tiền mới xoay chiều sang các kênh đầu tư khác. 

Cho đến nay, các dự báo về kinh tế toàn cầu trong năm 2024 chưa thật sự sáng sủa. Dự báo của các nhà kinh tế cho thấy, tăng trưởng GDP của Trung Quốc sẽ chậm lại trong năm 2024, chỉ còn 4,6% (năm 2023 là khoảng 5,2%), tăng trưởng GDP của Mỹ về dưới 2%, tăng trưởng GDP của EU dưới 1%...

Dù ngân hàng vẫn là kênh hút tiền chủ đạo của nền kinh tế, song nếu mặt bằng lãi suất thấp như hiện nay tiếp tục kéo dài, nhiều khả năng một phần dòng tiền sẽ chuyển sang các kênh đầu tư khác, đặc biệt là chứng khoán và bất động sản. Việc giảm lãi suất huy động cùng với các chính sách bán hàng mới đang kích thích giao dịch trên thị trường bất động sản.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, thị trường bất động sản đã qua giai đoạn khó khăn nhất. Thời gian tới, thị trường bất động sản sẽ diễn biến theo kịch bản tốt hơn, cú hích lớn sẽ bắt đầu từ đầu quý I/2024 nhờ lãi suất giảm và bắt đầu có “độ ngấm của chính sách”. Chưa kể, cùng thời điểm đó, tình hình phục hồi kinh tế và vĩ mô của Việt Nam cùng thế giới cũng sẽ rõ nét hơn.

Trên thực tế, thị trường bất động sản đã có dấu hiệu ấm lên từ nửa cuối năm 2023, song giao dịch vẫn chưa thật sự sôi động, chủ yếu là do khan hiếm nguồn cung nhà ở có giá hợp lý. Kỳ vọng thị trường bất động sản phục hồi năm 2024 là có cơ sở. Ngoài bức tranh kinh tế vĩ mô đang sáng dần, Chính phủ đang thúc ép doanh nghiệp bất động sản giảm giá bán nhà. Ngoài ra, dù có hiệu lực và đi vào cuộc sống từ đầu năm 2025, nhưng Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản cũng được kỳ vọng mang lại sức bật mới cho thị trường bất động sản.   

Theo ông Phan Dũng Khánh, năm 2024, nhà đầu tư có thể dần chuyển từ tiền tiết kiệm sang các kênh đầu tư mạo hiểm hơn như chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản đã qua giai đoạn khó khăn nhất và cơ hội đang được mở ra. “Sự phục hồi của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản sẽ rõ nét hơn từ giữa năm 2024”, ông Khánh nhận định. 

Riêng đối với kênh chứng khoán, các chuyên gia phân tích đều cho rằng, đây là kênh đầu tư “sáng cửa” năm 2024, nếu kinh tế vĩ mô khởi sắc đúng như dự báo. Năm 2023, tăng trưởng GDP thấp hơn dự báo, song Chỉ số VN-Index vẫn tăng hơn 10%. Ông Huỳnh Hoàng Phương, Giám đốc Khối nghiên cứu và Phân tích đầu tư FIDT cho rằng, triển vọng tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tốt hơn năm 2023, một phần do kỳ vọng lợi nhuận thị trường tốt hơn, một phần nhờ nền lãi suất tiếp tục duy trì ở mức thấp và chính sách tiền tệ mở rộng. 

Theo ông Phương, nhiều khả năng, năm 2024, VN-Index đạt 1.300 điểm (+/- 20 điểm) khi kinh tế Việt Nam hồi phục tốt năm 2024; kinh tế Mỹ hạ cánh mềm. Rủi ro từ trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản ở mức hạn chế và dòng vốn ngoại trở lại từ cuối quý II/2024.  

“Tuy triển vọng của kênh đầu tư chứng khoán rất sáng sủa, nhưng người dân cũng nên tỉnh táo, không chạy theo đầu cơ, mà xác định đây là kênh đầu tư dài hạn. Hiện hơn 95% nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường là đầu cơ với mong muốn giàu nhanh, song việc này khó xảy ra trên thực tế, sớm muộn gì cũng sẽ gặp rủi ro. Thay vào đó, nên tập trung vào các mã cổ phiếu giá trị và không kỳ vọng quá nhiều tỷ suất sinh lời cao. Đồng thời, luôn chú ý quản trị rủi ro danh mục, tránh đầu tư theo tin đồn”, PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) cảnh báo.   

Mặc dù ngân hàng và bất động sản là hai ngành lớn, chi phối định giá thị trường, song bà Đỗ Hồng Vân, Trưởng phòng Phân tích Dữ liệu FiinGroup đánh giá, đây là hai nhóm ngành chưa có triển vọng thực sự tích cực năm 2024. Ngược lại, một số nhóm ngành được đánh giá tích cực là công nghệ thông tin, thủy sản, dệt may, thép, bất động sản khu công nghiệp…

Đối với nhà đầu tư, lời khuyên được chuyên gia đưa ra nhiều nhất là bỏ trứng vào nhiều giỏ, ưu tiên tỷ trọng dựa trên khẩu vị rủi ro và hiểu biết của mình. Dù ở khẩu vị rủi ro nào, các chuyên gia đều cho rằng, nhà đầu tư nên lựa chọn một tỷ trọng nhất định với vàng (10-15%) và trái phiếu (10-20%), còn lại là tiết kiệm và cổ phiếu.

Với nhà đầu tư có khẩu vị thận trọng, tỷ lệ phân bổ tài sản nên tập trung chủ yếu vào tiền gửi tiết kiệm (75-80%), một phần vào vàng (10-15%) và trái phiếu (10%). Với nhà đầu tư có khẩu vị thận trọng vừa phải, có thể dịch chuyển một phần tiền sang đầu tư cổ phiếu (15-20%). Với nhà đầu tư thiên về tăng trưởng, tỷ lệ đầu tư cổ phiếu có thể ở mức cao hơn (30-40%).

Khoảng 2 triệu tỷ đồng vốn tín dụng sẽ được đưa vào nền kinh tế năm 2024
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã có sự chủ động, có những cơ chế mới cho việc điều hành tín...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư