Thứ Tư, Ngày 05 tháng 03 năm 2025,
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động cho vay lại vốn ODA tại Việt Nam
PV - 04/03/2025 21:58
 
Từ những bài học kinh nghiệm của quốc tế trong quản lý vốn vay ODA, đặc biệt trong việc thiết lập các cơ chế đối tác công - tư và nâng cao năng lực phân tích tài chính, Chính phủ thấy rõ những thách thức cũng như cơ hội để cải thiện hiệu quả quản lý vốn thông qua hình thức cho vay lại vốn ODA nhằm đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án đầu tư, đảm bảo tính bền vững tài chính và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Tại Việt Nam, năm 2020, vốn ODA chiếm 70-85% tổng đầu tư của nhiều dự án hạ tầng trọng điểm như cầu cạn Mai Dịch - Nam Thăng Long, cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi, và đường sắt Cát Linh - Hà Đông, phản ánh vai trò quan trọng của kênh huy động vốn này trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Hệ thống pháp lý hiện hành tại Việt Nam đã tạo ra một nền tảng nhất định cho hoạt động cho vay lại. Các quy định pháp luật như Luật Quản lý Nợ Công (2017), Luật Đầu tư (2020) và Luật Đầu tư Công (2019) cung cấp cơ sở pháp lý cho việc lựa chọn dự án, phê duyệt vốn và quản lý rủi ro. Quản lý chặt chẽ hoạt động này giúp đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và hạn chế thất thoát.

Cho vay lại vốn ODA là phương thức hỗ trợ vốn của Chính phủ cho các đối tượng được vay lại để thực hiện các dự án đầu tư. 

Thách thức trong việc cho vay lại vốn ODA tại Việt Nam

Quốc hội Việt Nam đã phê duyệt hạn mức cho vay lại trong giai đoạn 2021-2025 là 222 nghìn tỷ VND; tuy nhiên, đến nay mới giải ngân được 26%. Phần lớn vốn vay tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực chiến lược như năng lượng (65,9%) và giao thông (21,9%). Tuy nhiên, nợ quá hạn từ các dự án này đang có xu hướng gia tăng, đạt 5.309 tỷ VND (chiếm 2,3% tổng dư nợ). Nguyên nhân chủ yếu là do những hạn chế trong quá trình thẩm định và giám sát, cũng như các quy định hạn chế việc sử dụng tài sản công làm tài sản thế chấp. Thêm vào đó, việc thiếu các công cụ hiện đại như dự báo dòng tiền và phân tích tài chính dài hạn cũng ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các dự án.

Tỷ lệ nợ quá hạn gia tăng đồng nghĩa với nghĩa vụ nợ tiềm tàng (contingent liabilities), luôn là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tại các nền kinh tế mới nổi, chi phí tài khóa trung bình khi các nghĩa vụ này hiện thực hóa chiếm 6% GDP, nhưng có thể lên tới 40-50% GDP trong trường hợp hỗ trợ khẩn cấp lĩnh vực tài chính. Những rủi ro này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân đối nợ công và tính bền vững tài khóa, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng.

Mặt khác, các dự án phát triển hạ tầng xã hội thuộc ngành giáo dục, y tế, và môi trường tuy cũng là các lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn cho vay lại nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Điều này xuất phát từ việc các dự án giáo dục và y tế gặp khó khăn trong việc chứng minh khả năng tạo ra dòng tiền đủ lớn để trả nợ, do phải tuân thủ các quy định hạn chế về mức học phí và viện phí. Tình hình càng khó khăn hơn khi Việt Nam chuyển sang nhóm quốc gia thu nhập trung bình, khả năng tiếp cận nguồn vốn ODA ưu đãi ngày càng giảm. Điều này buộc Chính phủ phải tìm kiếm các nguồn vốn ít ưu đãi hơn, đồng thời quản lý tốt hơn các khoản vay ODA để duy trì nguồn đầu tư cho các dự án đầu tư công và đáp ứng nhu cầu phát triển.

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động cho vay lại vốn ODA tại Việt Nam

Để hỗ trợ chính phủ Việt Nam trong công tác quản lý vốn ODA hiệu quả, đồng thời giảm thiểu rủi ro đi kèm, dự án Tăng Cường Quản Lý Tài Chính Công tại Việt Nam, do Liên minh châu Âu và chính phủ Đức đồng tài trợ thông qua GIZ, đã triển khai một loạt hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cùng Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại bao gồm cung cấp chuyên gia trong và ngoài nước thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu nhằm đưa ra các khuyến nghị phù hợp với tình hình thực tế, cũng như tổ chức các buổi tọa đàm tạo điều kiện cho các cán bộ học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia.

Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, để giảm thiểu rủi ro tín dụng đồng thời tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, Chính phủ cần thực hiện các đánh giá toàn diện về rủi ro từ các nghĩa vụ nợ tiềm tàng, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, thiên tai và pháp lý. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu rủi ro giúp theo dõi, phân loại và định lượng tác động tiềm năng.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của các chuyên gia cũng đề xuất mô hình đối tác công-tư (Public Private Partnerships - PPP), là sự hợp tác giữa một cơ quan chính phủ hoặc khu vực công và một công ty tư nhân hoặc một tập đoàn để cung cấp một dự án hoặc dịch vụ để chia sẻ nguồn lực, rủi ro, trách nhiệm và phần thưởng. Mô hình này đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia Châu Á và đặc biệt là Đông Nam Á như Philippines, Indonesia và Brazil.

Mô hình PPP được áp dụng ở nhiều quốc gia Châu Á, Đông Nam Á và được xem là bàn đạp cho Việt Nam thúc đẩy kinh tế - xã hội

Có thể thấy rất rõ tính hiệu quả của mô hình này trong hơn hai thập kỷ được áp dụng tại Philippines. Chính phủ Philippines đã thành lập Trung tâm PPP, hoạt động dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Tổng thống, nhằm hỗ trợ các cơ quan chính phủ và đối tác tư nhân trong quá trình xây dựng và triển khai dự án. Các dự án PPP tại Philippines không chỉ giúp nâng cao năng lực hạ tầng mà còn đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình thông qua quy trình đấu thầu cạnh tranh và hợp đồng rõ ràng.

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance) là nguồn vốn vay ưu đãi hoặc viện trợ từ chính phủ và tổ chức quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Cho vay lại vốn ODA và các khoản vay ưu đãi nước ngoài là quá trình trong đó chính phủ nhận viện trợ hoặc vay vốn ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, sau đó cho các bên trong nước vay, như chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp. Nguồn vốn này nhằm hỗ trợ thực hiện các chương trình và dự án phát triển xã hội, bao gồm cả các sáng kiến chuyển đổi xanh. Việc quản lý cho vay lại vốn ODA đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và hiệu quả, tối đa hóa lợi ích.
Tăng tốc giải ngân vốn ODA
Dù Việt Nam đã là nước đang phát triển, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) mà các đối tác phát triển dành cho không còn lớn, song trong...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư