Chủ Nhật, Ngày 01 tháng 06 năm 2025,
Phát triển kinh tế tư nhân: Tuyên chiến với tư duy “không quản được thì cấm” - Bài 2: Quản được đến đâu, mở ra đến đó?
Khánh An - 31/05/2025 09:09
 
Pháp luật đã quy định, doanh nghiệp, người dân được làm những gì pháp luật không cấm, song khoảng không gian này dường như đang bị khoanh vùng bởi tư duy quản được đến đâu, mở đến đó, thậm chí là hiểu đến đâu, thì cho làm đến đó...

Không gian phát triển không giới hạn cho khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đang dần hiện hữu khi tư duy “không quản được thì cấm” chính thức bị loại, không còn sự thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế, soạn thảo và thực thi cơ chế, chính sách, như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Tất nhiên, mọi sự thay đổi sẽ không đến trong ngày một, ngày hai, nhưng tốc độ sẽ nhanh khi cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp đồng tốc, đồng hướng.

Doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang rất lo lắng về dự thảo quy định mới với ngành hàng xuất khẩu này. Ảnh: Đức Thanh

Bài 2: Quản được đến đâu, mở ra đến đó?

Pháp luật đã quy định, doanh nghiệp, người dân được làm những gì pháp luật không cấm, song khoảng không gian này dường như đang bị khoanh vùng bởi tư duy quản được đến đâu, mở đến đó, thậm chí là hiểu đến đâu, thì cho làm đến đó...

Doanh nghiệp sống tiếp thế nào?

16 năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu gạo, trải qua nhiều thăng trầm, có lúc gần như phá sản, phải bắt đầu lại, vậy mà bà Vũ Hồng Cẩm Vân, Giám đốc pháp chế và tuân thủ của một công ty lương thực tại Hà Nội không giấu được sự bức xúc, lo lắng.

“Nếu Dự thảo sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP và Nghị định 01/2025/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo được ban hành như nội dung Bộ Công thương đang lấy ý kiến, thì không biết Công ty sống tiếp thế nào”, bà Vân nói.

Theo dự thảo mới nhất, thương nhân xuất khẩu gạo sẽ phải sở hữu kho chứa thóc, gạo, thay vì được thuê như quy định hiện hành. Nghĩa là, các doanh nghiệp đang thuê kho nếu muốn đủ điều kiện để được xuất khẩu gạo, sẽ phải đầu tư xây dựng kho chứa.

Theo tính toán, vốn đầu tư cho một kho chứa theo tiêu chuẩn hiện nay khoảng 40-50 tỷ đồng, thời gian đầu tư, xây dựng ít nhất khoảng 2 năm, tính từ lúc tìm địa điểm, thực hiện các thủ tục về đất đai, chuyển quyền sử dụng, chuyển mục đích sử dụng, trình dự án, xin giấy phép xây dựng, đầu tư dây chuyển, thiết bị, vượt qua các bước thẩm định về phòng cháy, chữa cháy...

“Vấn đề là chúng tôi sẽ phải đi vay ngân hàng, trong khi nếu được phép thuê, chỉ cần 800 triệu đến 1 tỷ đồng/năm. Nguồn lực còn lại sẽ dồn vào đầu tư chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tìm kiếm khách hàng... Chúng tôi thuê, nhưng chỉ khác doanh nghiệp sở hữu kho tấm giấy chứng nhận quyền sở hữu, còn về tiêu chuẩn của kho, quyền sử dụng thì không khác gì”, bà Vân trăn trở.

Nhưng đường sống cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ có một vài khúc quanh. Cánh cửa thậm chí đang đóng lại khi Nghị định 01/2025/NĐ-CP buộc doanh nghiệp ủy thác xuất khẩu gạo cũng phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu gạo như doanh nghiệp nhận ủy thác. Quy định này đã có hiệu lực từ ngày 1/3/2025.

“Chúng tôi không đủ lực đầu tư các điều kiện để có được giấy phép, đã phải ủy thác xuất khẩu, chấp nhận chi phí, rủi ro, có thể bị mất khách hàng vào chính doanh nghiệp nhận ủy thác, song vẫn làm vì đó là công việc, là khách hàng của mình. Công ty đã có được tệp khách hàng trải dài trên 70 quốc gia, mỗi năm xuất khoảng 40.000 - 50.000 tấn gạo, giờ không được làm...”, bà Vân dừng lại, dường như không muốn chạm trực diện vào thách thức mà Công ty đang thấy rõ.

Tư duy “không quản được thì cấm”

Trong phần đầu của văn bản gửi Bộ Công thương vào ngày 27/5/2025, để góp ý vào dự thảo trên, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã nhắc đến Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, với yêu cầu cụ thể là giảm thiểu sự can thiệp hành chính, xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm” và loại bỏ các rào cản tiếp cận thị trường nhằm bảo đảm môi trường kinh doanh thông thoáng, dễ tuân thủ và chi phí thấp.

Đây là quan điểm tiếp cận mà tổ chức đại diện cho doanh nghiệp này đã tìm, nhưng không thấy trong phần giải trình của Ban Soạn thảo. Thậm chí, không ít quy định trong Dự thảo được VCCI xác định rõ là mang tư duy “không quản được thì cấm”, như yêu cầu sở hữu kho chứa thóc, gạo.

Theo phân tích của VCCI, mục tiêu chính của điều kiện về kho chứa là nhằm nắm được thông tin về năng lực vận hành của doanh nghiệp và kho đó được sử dụng để dự trữ thóc, gạo. Việc doanh nghiệp sở hữu hay đi thuê đều có thể đạt được mục tiêu này, miễn là doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về năng lực.

Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo lại cho rằng, vì tình trạng thương nhân thuê kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo chỉ để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, không quan tâm đến duy trì kho chứa, nên buộc phải siết lại.

“Nếu doanh nghiệp nào không duy trì điều kiện kinh doanh, Nhà nước có thể thu hồi giấy phép của doanh nghiệp đó, chứ không nên đặt điều kiện cao hơn với tất cả doanh nghiệp. Làm như vậy không khác gì ‘một người sai cả làng chịu phạt’. Thêm nữa, quy định này sẽ gia tăng đáng kể chi phí gia nhập thị trường cho các doanh nghiệp mới và doanh nghiệp nhỏ”, ông Phạm Văn Hùng, chuyên gia Ban Pháp chế làm rõ lý do VCCI kiến nghị bãi bỏ quy định này trong Dự thảo.

Nhưng, dường như mối quan tâm của Ban Soạn thảo khi thiết kế điều khoản này còn ở một góc nhìn khác. Trong phần giải trình, Ban Soạn thảo nhắc đến lý do thương nhân thuê kho không phải đầu tư chi phí ban đầu xây dựng giúp giá thành cạnh tranh hơn các thương nhân sở hữu kho. “Nhận định này không đúng. Không xây kho thì doanh nghiệp vẫn phải đi thuê kho, phải trả tiền thuê kho. Đây là chi phí kinh doanh và đương nhiên là tính vào giá bán sản phẩm.

Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ nên xử lý các hành vi phản cạnh tranh. Chuyện thuê kho hay xây kho là quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nhà nước không nên can thiệp”, ông Hùng bày tỏ quan điểm.

VCCI cũng đề nghị bỏ quy định dự trữ tối thiểu với thương nhân mới, để không tăng thêm điều kiện gia nhập thị trường với các doanh nghiệp này. Nếu buộc phải dự trữ tối thiểu 1.250 tấn gạo sau 45 ngày được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và duy trì cho đến khi có thành tích xuất khẩu gạo như Dự thảo đưa ra, thì doanh nghiệp sẽ phải huy động vốn lớn cùng hàng loạt chi phí lưu kho, bảo quản…

Trong khi đó, mục tiêu mà Ban Soạn thảo đưa ra là để kiểm soát tình trạng cạnh tranh để mua hàng, ảnh hưởng đến giá gạo nội địa khi thương nhân ký hợp đồng rồi mới thu mua không thực sự có ý nghĩa. Ngay cả nếu có trường hợp này xảy ra, thì tác động của doanh nghiệp mới tới thị trường cũng không đáng kể; còn nếu do các doanh nghiệp quy mô lớn gây ra, thì quy định này lại không giải quyết được.

Phía sau sự trở lại của điều kiện kinh doanh

8 năm trước, khi Nghị định 107/2018/NĐ-CP được ban hành, hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo thay đổi hoàn toàn.

Trước đó, Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo buộc doanh nghiệp phải thành… Thánh Gióng ngay khi sinh ra mới đủ sức thỏa mãn các điều kiện kinh doanh ngặt nghèo, như muốn được xuất khẩu gạo, doanh nghiệp phải có ít nhất một kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc; có ít nhất một cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ; phải xuất khẩu gạo trong thời gian 12 tháng liên tục…

Năm 2018, thực hiện Nghị quyết 19/2018/NQ-CP về cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hơn 3.000 trong số 4.300 điều kiện kinh doanh đã được cắt giảm. Đây là đợt cắt giảm điều kiện kinh doanh lớn nhất kể khi công cuộc cắt giảm, bãi bỏ giấy phép được thực hiện vào năm 2000. Các điều kiện kinh doanh đặt ra yêu cầu về quy mô, diện tích và vị trí của địa điểm kinh doanh, về chứng chỉ trình độ chuyên môn của người lao động, về máy móc, trang thiết bị, về quy mô và phạm vi kinh doanh… đều được xem xét và ưu tiên xóa bỏ.

Khi đó, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận định, các điều kiện này đặt doanh nghiệp trước một lựa chọn nghiệt ngã và phi lý: hoặc ngay lập tức trở thành người khổng lồ hoặc không tồn tại. Đã có doanh nghiệp không thể xin được giấy phép xuất khẩu, buộc phải lập công ty tại nước khác để nhập gạo của chính mình từ Việt Nam qua một đối tác được ủy thác xuất khẩu.

Không ngờ, điểm sáng nhiều năm trước trong tư duy quản lý nhà nước lại quay về vạch xuất phát trước đó, gần như chặn đứng cơ hội tham gia thị trường của những doanh nghiệp nhỏ, trong khi thị trường có nhiều phân khúc, phù hợp với nhiều quy mô doanh nghiệp.

“Việc kinh doanh phải tích tiểu thành đại, góp gió thành bão, phải bắt đầu từ con số 0 rồi tiến đến bán vài tạ, vài tấn, rồi hàng ngàn, hàng vạn tấn. Không thể bỗng dưng bán được hàng ngàn, hàng vạn tấn gạo. Ai dám chắc sẽ bán được lượng hàng lớn đến thế, đầu tư kho bãi, cơ sở xay xát rồi không bán được hàng thì sao? Chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ có được những doanh nghiệp lớn, năng động, sáng tạo, có sức cạnh tranh nếu còn giữ cách tư duy như vậy, dù có xuất khẩu nhiều gạo nhất nhì thế giới. Rất mong Chính phủ không thông qua những dự thảo như vậy”, ông Cung đau đáu, khi nhiều năm rồi vẫn kiên trì với đề xuất bãi bỏ tất cả quy định, thủ tục hành chính đang cấm, hạn chế đổi mới sáng tạo, hạn chế tự do kinh doanh dưới mọi hình thức, trừ các ngành, nghề cấm kinh doanh theo luật định.

Có lẽ cũng phải nhắc lại mối lo của ông Nguyễn Hòa Bình, Chủ tịch NexTech về điều kiện để công ty fintech được xem xét giấy chứng nhận tham gia cơ chế thử nghiệm (theo Nghị định 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng) không chỉ là việc đáp ứng yêu cầu.

“Điều kiện bắt buộc là người đại diện theo pháp luật, tổng giám đốc hay giám đốc phải có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật, công nghệ thông tin và có ít nhất 2 năm kinh nghiệm là người quản lý, người điều hành của tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Điều đó đồng nghĩa với việc, dù ngành này ban đầu được khởi tạo và phát triển bởi khu vực tư nhân, thì giờ đây lại phải ‘quy hàng’ về điều kiện của ngân hàng”, ông Bình rất trăn trở. Thậm chí, ông đặt giả thuyết, nếu điều này diễn ra ở các lĩnh vực khác như vận tải, logistics hay công nghệ, thì chắc chắn sẽ trở thành lực cản lớn cho tiến trình đổi mới sáng tạo và phát triển nền kinh tế số.

Dường như các chỉ đạo, tư tưởng của Tổng Bí thư trong “bộ tứ trụ cột”, gồm Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, vẫn chưa thấm vào hành động của nhiều công chức.

(Còn tiếp)

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư