Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Chủ Nhật, Ngày 16 tháng 06 năm 2024,
Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc: Bản sắc, sinh thái, liên kết, hạnh phúc
Thanh Huyền - 23/05/2024 16:23
 
Bản Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc có ý nghĩa quan trọng, với tư duy mới, tầm nhìn mới, có sự bứt phá hướng đến việc chủ động kiến tạo để phát triển.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc được coi là “phên dậu” và “lá phổi” của Tổ quốc.

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Vùng là cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của Quốc gia với Trung Quốc, Lào và các nước ASEAN; có hệ thống nhiều cửa khẩu lớn, nhỏ, có tiềm năng phát triển các hoạt động kinh tế cửa khẩu, kết nối các địa phương khác trong cả nước về giao thương, xuất nhập khẩu hàng hóa với thị trường Trung Quốc; là một trong những cửa ngõ để thông ra biển và kết nối với ASEAN của các tỉnh phía Tây Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một số hành lang kinh tế và trục kết nối vùng và khu vực.

Vùng được coi là “phên dậu” và “lá phổi” của Tổ quốc, có vai trò quyết định đối với an ninh nguồn nước và môi trường sinh thái, là nơi bảo vệ đa dạng sinh học và rừng đầu nguồn của cả vùng Bắc Bộ. Đồng thời, đây cũng là an toàn khu, “cái nôi” của cách mạng Việt Nam, là vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú; có nhiều di sản văn hoá đặc sắc, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Trong thời gian qua, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự vào cuộc tích cực của các địa phương, sự hỗ trợ của các đối tác phát triển, vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tạo tiền đề, cơ sở để vùng vươn lên, thu hẹp dần khoảng cách phát triển với các vùng kinh tế - xã hội khác trong cả nước.

Giai đoạn vừa qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn vùng đang đạt được mức khá cao so với cả nước, vượt mục tiêu đặt ra. Cụ thể: giai đoạn 2010 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân của vùng đạt 8,42%/năm (so với tốc độ tăng 6,21%/năm của cả nước), giai đoạn 2021 - 2023, đạt tốc độ tăng trưởng 7,65%/năm (so với tốc tốc độ tăng trưởng 5,19% của cả nước). GRDP bình quân đầu người cũng đã gia tăng đáng kể, năm 2023, đạt 64,8 triệu đông/người, tăng so với mức 52,8 triệu đồng/người năm 2020.

Một số địa phương có mức tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào GDP chung cả nước, có vai trò dẫn dắt, đầu tàu phát triển vùng như Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai, Phú Thọ, tạo nên các cực tăng trưởng trọng điểm, hạ tầng đồng bộ phục vụ phát triển đô thị, công nghiệp, dịch vụ trong mối liên kết với Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và các vùng lân cận.

Tuy nhiên, quy mô kinh tế vùng còn khiêm tốn, chưa địa phương nào trong vùng tự cân đối được ngân sách, phát triển vùng ở nhiều lĩnh vực còn thấp hơn mức trung bình cả nước, tỷ lệ nghèo đa chiều của vùng năm 2022 là 22%, gấp gần 3 lần bình quân cả nước. Bên cạnh đó, chênh lệch phát triển nội vùng còn lớn khi tăng trưởng kinh tế mạnh chỉ ở một số địa phương mang tính chất đầu tàu, trong khi đó, một số địa phương có quy mô nền kinh tế rất nhỏ và trình độ phát triển còn thấp, nhiều địa bàn thuộc khu vực đặc biệt khó khăn của cả nước

Một trong những “nút thắt” lớn trong phát triển vùng là liên kết nội vùng và liên vùng kém, đặc biệt theo theo phương ngang (Đông - Tây). Khoảng cách và thời gian di chuyển giữa các tỉnh còn nhiều bất cập, khó có sự liên kết giữa các hoạt động kinh tế - xã hội và chia sẻ các hạ tầng xã hội, dịch vụ công giữa các tỉnh trong vùng, kể cả với một số tỉnh trong cùng tiểu vùng. Những liên kết liên vùng mang tính chiến lược còn thiếu hoặc trong tình trạng chậm đầu tư. Hơn nữa, so với cả nước, vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có năng suất lao động ở mức thấp. Tỉ lệ lao động qua đào tạo dưới mức trung bình của cả nước và ngày càng tụt hậu.

Nhận thức được quy hoạch phải đi trước một bước và cần có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các địa phương trong vùng triển khai xây dựng Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học và tuân thủ đúng quy định.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 4/5/2024 phê duyệt Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. (Ảnh: MPI)

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, bản Quy hoạch vùng này có ý nghĩa quan trọng, với tư duy mới, tầm nhìn mới, có sự bứt phá hướng đến việc chủ động kiến tạo để phát triển; tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; mạnh dạn tái cơ cấu kinh tế, tổ chức lại không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững.

Theo đó, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 8 chữ Bản sắc - Sinh thái - Liên kết - Hạnh phúc để thể hiện nội dung của Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

 Bản sắc

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn có nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống với bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng, là dân tộc “đa số” thay vì quan niệm dân tộc thiểu số thông thường; nhiều di tích lịch sử, văn hóa có tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế cho người dân địa phương, tạo ra động lực mới cho sự phát triển vùng.

Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã nhấn mạnh công tác giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa các dân tộc hướng tới xây dựng hệ thống đô thị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nhấn mạnh việc giữ chân nguồn nhân lực, phát triển du lịch và nông nghiệp dựa trên giá trị bản sắc của các cộng đồng bản địa.

Sinh thái

Tăng trưởng xanh là xu hướng tiếp cận mới trong phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà tăng trưởng xanh còn hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái thiên nhiên, đồng thời góp phần quan trọng vào thực hiện chống biến đổi khí hậu. Việt Nam nói chung và vùng Trung du và miền núi phía Bắc nói riêng đang được đánh giá có rất nhiều tiềm năng về phát triển các lĩnh vực kinh tế xanh, gắn với rừng và dịch vụ môi trường rừng. Để hướng tới hình mẫu phát triển xanh của cả nước, quy hoạch đã đề ra các nội dung gồm:

Thứ nhất, phát triển vùng trên cơ sở bảo đảm sinh thái bền vững. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc đóng vai trò trọng yếu là “phên dậu”, cửa ngõ phía Bắc của quốc gia, có vai trò quyết định đối với an ninh nguồn nước và môi trường sinh thái, là nơi bảo vệ đa dạng sinh học và rừng đầu nguồn của cả vùng Bắc Bộ. Do đó, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng, khoáng sản, đất và nước cần được coi là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trung tâm trong các quyết định phát triển vùng.

Thứ hai, đề xuất hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh; cải thiện chất lượng rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ quanh khu vực rừng đặc dụng và các khu bảo tồn nhằm tăng đa dạng sinh học; triển khai rộng rãi các loại hình dịch vụ môi trường rừng mới như: Dịch vụ hấp thụ các-bon (tham gia thị trường tín chỉ các-bon), dịch vụ hệ sinh thái rừng và du lịch sinh thái rừng; coi đây là tiềm năng, lợi thế lớn cần khai thác hiệu quả.

Liên kết

Coi liên kết phát triển vùng là xu thế tất yếu, là động lực kết nối và dẫn dắt sự phát triển của các địa phương trong vùng. Liên kết vùng nhằm phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, lợi thế nhờ quy mô của cả vùng, nhất là lợi thế về kinh tế lâm nghiệp, giúp giải quyết những vấn đề phát triển chung của vùng, nhất là trong bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, bão, lũ và thích ứng với biến đổi khí hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng trong cả nước. Nội dung về liên kết vùng trong bản Quy hoạch vùng đã tập trung vào:

Thứ nhất, tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng. Trong đó, ưu tiên các kết nối kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và quốc tế; các kết nối Đông - Tây; kết nối quốc tế qua Lào; kết nối về phía biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, với việc ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị; đẩy nhanh tiến độ khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Đồng thời, liên kết để phát triển theo 5 hành lang kinh tế (Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ - Hà Nội; Lạng Sơn - Bắc Giang - Hà Nội; Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội; Hà Giang - Tuyên Quang - Phú Thọ - Hà Nội; Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên - Hà Nội), và khu vực động lực tại vành đai Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ gắn với vùng Thủ đô.

Thứ hai, là hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh. Tăng cường vai trò của các địa phương trong Hội đồng điều phối vùng, bảo đảm liên kết vùng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các địa phương, trong đó tập trung vào những vấn đề then chốt như: (i) Điều tiết, cân bằng lợi ích giữa các địa phương như xử lý các xung đột về lợi ích, đặc biệt là trong phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu; (ii) Điều hòa lợi ích của quốc gia và lợi ích của từng địa phương và (iii) Khuyến khích liên kết tự nguyện giữa các địa phương thông qua các chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và chính sách tạo thuận lợi, khuyến khích địa phương liên kết.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường phối hợp và liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; chia sẻ, liên kết trong phát triển khoa học và công nghệ hướng vào giải quyết những vấn đề công nghệ đặt ra trong phát triển vùng; hình thành và tăng cường liên kết mạng lưới các trung tâm ứng dụng công nghệ cao.

Thứ tư, liên kết các địa phương trong khai thác tiềm năng, lợi thế về phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch và kinh tế cửa khẩu; tích cực xử lý các vấn đề mang tính chất vùng như môi trường, sinh thái, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, an ninh nguồn nước, an ninh rừng.

Hạnh phúc

Phát triển kinh tế phải đi kèm với tiến bộ, công bằng xã hội, bản quy hoạch này đã đề ra các định hướng nhằm giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh biên giới, nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là y tế, giáo dục đào tạo; qua đó nâng cao sự hài lòng của Nhân dân về cuộc sống, trong đó có các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân; lấy sự hạnh phúc của người dân làm thước đo về sự thành công của định hướng phát triển.                     

Những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển nêu trên là hết sức quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong giai đoạn tới.

Toàn bộ hồ sơ Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được chuyển giao cho các địa phương và được thông tin công khai tại Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tập trung đầu tư hạ tầng liên kết vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Đầu tư hạ tầng là nội dung được chú trọng trong thời kỳ quy hoạch 2021 - 2030 của vùng Trung du và miền núi phía Bắc để giải quyết một trong 3...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư