Ngoài ra, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng góp ý liên quan đến quy định về điều kiện được cấp giấy phép sản xuất vàng miếng đối với doanh nghiệp có vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng trở lên.
Hiệp hội cho rằng quy định này quá chặt, chỉ 1 đến 3 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng có thể đáp ứng được điều kiện này.
Với quy định trên, số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất vàng miếng không đáng kể, khiến thị trường khó mở rộng và nguy cơ Nhà nước tiếp tục nắm thế độc quyền, làm giảm tính đa dạng và hạn chế nguồn cung vàng miếng.
Với lý do trên, Hiệp hội kiến nghị vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên là phù hợp. Ngoài ra, nên tập trung về năng lực sản xuất của doanh nghiệp, về hiệu quả kinh doanh, uy tín doanh nghiệp, thương hiệu trên thị trường, mẫu mã, chất lượng sản phẩm vàng miếng; tình hình chấp hành quy định của nhà nước liên quan đến kinh doanh vàng.
![]() |
Đối với việc cấp hạn mức hàng năm và giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu đối với doanh nghiệp sản xuất vàng miếng tại dự thảo, Hiệp hội cho rằng cần được xem xét bỏ.
Bởi quy định này tăng giấy phép con, tăng thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, kìm hãm hoạt động xuất khẩu vàng miếng, tái tạo ngoại tệ cho đất nước. Đồng thời làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì diễn biến thị trường vàng thế giới biến động liên tục, chịu tác động nhiều yếu tố.
Nếu chờ thủ tục cấp phép từng lần doanh nghiệp sẽ mất cơ hội xuất khẩu hoặc nhập khẩu với giá tốt nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và hoạt động xuất khẩu.
Hiệp hội cũng đề nghị chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức xuất nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu hàng năm, phân bổ cho từng doanh nghiệp ngay từ quý I đầu năm theo nguyên tắc công khai, minh bạch, không phát sinh giấy phép con.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp chủ động lựa chọn thời điểm và khối lượng (trong hạn mức) để nhập khẩu hoặc xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp thực hiện báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện hạn mức xuất nhập khẩu vàng với Ngân hàng Nhà nước. Việc điều chỉnh bổ sung hạn mức do Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định.
Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc về cơ chế nên khuyến khích nhập vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, vàng trang sức đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu, tái tạo ngoại tệ, không nên tạo cơ chế về hoạt động mang tính thương mại (nhập khẩu và xuất khẩu vàng miếng).
Hộ kinh doanh nông nghiệp được vay tối đa 500 triệu đồng không tài sản thế chấp
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ.
Theo đó, Nghị định nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của các khách hàng hiện nay.
Cụ thể, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình được tăng từ mức 100-200 triệu đồng lên mức 300 triệu đồng.
Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh được tăng từ mức 300 triệu đồng lên mức 500 triệu đồng.
Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với chủ trang trại được tăng từ mức 01 - 02 tỷ đồng lên mức 03 tỷ đồng.
Mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tăng từ mức 01 - 03 tỷ đồng lên mức 05 tỷ đồng.
Nghị định cũng cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, bỏ nội dung liên quan đến yêu cầu nộp giấy xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp do Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận; đồng thời quy định khách hàng được vay không có tài sản bảo đảm và tổ chức tín dụng thỏa thuận (thay vì yêu cầu bắt buộc như quy định trước đây) về việc khách hàng nộp cho tổ chức tín dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của khách hàng trong thời gian vay không có tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng.
Nghị định cũng sửa đổi quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro theo hướng giao ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP; đồng thời hướng dẫn về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ để phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và các quy định pháp luật có liên quan.
Các nội dung được bổ sung mới trong Nghị định là: Bổ sung một số khái niệm liên quan đến chính sách khoanh nợ để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khoanh nợ và phù hợp với thực tế khoanh nợ trong thời gian qua; Bổ sung chính sách tín dụng khuyến khích nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn được hưởng chính sách tín dụng tương tự như khách hàng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp (về mức cho vay không có tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý rủi ro) để phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp theo các mô hình mới hiện nay theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ...
Việc sửa đổi, bổ sung Nghị định nhằm phù hợp với thực tế nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp hiện nay và tiếp tục phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống trong thời gian tới theo đúng chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, góp phần khơi thông nguồn lực hơn nữa cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đóng góp chung vào phấn đấu hoàn thành mục tiêu tăng tốc, bứt phá, về đích trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong thời gian tới cũng như phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.