Chủ Nhật, Ngày 03 tháng 08 năm 2025,
Xuất khẩu xi măng, clinker khó hơn vì hàng rào bảo hộ
Thế Hải - 03/08/2025 15:21
 
Xuất khẩu xi măng, clinker của Việt Nam đang đối mặt với hàng loạt biện pháp phòng vệ thương mại từ nhiều thị trường lớn.
Công suất sản xuất xi măng của Việt Nam đạt 123 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ trong nước c hỉ 65 - 70 triệu tấn/năm, nên áp lực xuất khẩu rất lớn (Ảnh: Đ.T)
Công suất sản xuất xi măng của Việt Nam đạt 123 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ trong nước c hỉ 65 - 70 triệu tấn/năm, nên áp lực xuất khẩu rất lớn. Ảnh: Đức Thanh

Sức ép từ hàng rào bảo hộ

Sau 3 năm xuất khẩu giảm sâu, ngành xi măng mới tạm vực dậy trong 2 tháng gần đây, đưa xuất khẩu từ mức tăng trưởng âm trở lại tăng trưởng dương trong 6 tháng đầu năm (xuất khẩu 16,8 triệu tấn, trị giá 630 triệu USD, tăng lần lượt 6,7% và 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái). Tuy nhiên, mới đây, ngành này lại nhận tin không vui từ thị trường xuất khẩu.

Nguồn tin từ Cục Phòng vệ thương mại cho hay, sau gần 1 năm điều tra, Cơ quan Quản lý kinh tế Đài Loan (Trung Quốc) đã quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với xi măng và clinker của Việt Nam, với biên độ dao động từ 13,59% đến 23,20%. Quyết định này có hiệu lực trong vòng 5 năm, từ tháng 7/2025 đến tháng 7/2030.

Việc Đài Loan áp thuế chống bán phá giá lên tới 23,2% càng chồng chất thêm khó khăn cho xuất khẩu xi măng, clinker của Việt Nam. Như vậy, các thị trường gần - vốn là khách hàng lớn của ngành trong nhiều năm qua - đang dần trở thành thị trường khó tiếp cận hơn.

Dù thuế xuất khẩu clinker đã giảm một nửa, còn 5% từ cuối tháng 5/2025, nhưng về tổng thể, hoạt động xuất khẩu của ngành vẫn chưa thuận lợi, do áp lực dư cung quá lớn (khoảng 60 triệu tấn), kèm theo thách thức từ rào cản kỹ thuật và thuế phòng vệ thương mại.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam

Trong bối cảnh nhiều nền kinh tế châu Á tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước, dựng rào cản thương mại với hàng nhập khẩu, động thái của Đài Loan càng cho thấy sự cần thiết phải kiểm soát sản lượng và giá xuất khẩu, tránh rơi vào vòng xoáy các biện pháp phòng vệ ngày càng gia tăng.

Ngoài Đài Loan, xi măng và clinker xuất khẩu của Việt Nam còn đang chịu thuế phòng vệ thương mại tại một số thị trường chủ lực như Philippines và Bangladesh.

Cụ thể, Philippines, thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành, áp dụng biện pháp phòng vệ với xi măng từ nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Bangladesh và Malaysia cũng điều chỉnh chính sách nhập khẩu, như tăng nhập xi măng từ các nguồn dư thừa tại Pakistan, UAE.

Do bị áp thuế, thời gian qua, xuất khẩu sang Philippines đã giảm rất mạnh. Cùng với khó khăn tại các thị trường lớn như Trung Quốc và Bangladesh, 3 năm gần nhất, xuất khẩu xi măng, clinker chỉ đạt 29 - 32 triệu tấn/năm (doanh thu dưới 1,4 tỷ USD/năm), trong khi năm cao điểm 2021 đạt 45 triệu tấn, trị giá gần 1,8 tỷ USD.

Riêng với thị trường Đài Loan, theo số liệu sơ bộ từ Cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm nay, tổng sản lượng xuất khẩu xi măng, clinker sang thị trường này đạt 713.663 tấn, trị giá 26,8 triệu USD. Giá xuất khẩu trung bình trong tháng 6 đạt 39,89 USD/tấn, tăng nhẹ so với mức bình quân 6 tháng đầu năm (37,55 USD/tấn). Tuy nhiên, khi thuế chống bán phá giá có hiệu lực, rất khó để doanh nghiệp Việt duy trì mức độ xuất khẩu hiện nay sang thị trường này.

Cần phải nói thêm, trong bối cảnh nguồn cung dư thừa lớn, xuất khẩu là kênh tiêu thụ quan trọng đối với ngành xi măng, bên cạnh thị trường nội địa.

Theo Bộ Xây dựng, cả nước hiện có 92 dây chuyền sản xuất xi măng đã được đầu tư, với tổng công suất khoảng 123 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, sản lượng thực tế có thể vượt con số này do việc điều chỉnh tỷ lệ phụ gia. Trong khi đó, thị trường nội địa chỉ tiêu thụ 65-70 triệu tấn/năm.

Triển vọng xuất khẩu chậm

Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), những tháng gần đây, ngành xi măng ghi nhận sự phục hồi nhẹ trong sản xuất và tiêu thụ. Dẫu vậy, tình trạng dư cung quá lớn cùng chi phí sản xuất tăng khiến cạnh tranh trong nước trở nên khốc liệt. Khi xuất khẩu gặp khó, doanh nghiệp quay lại thị trường nội địa, làm gia tăng nguy cơ cạnh tranh bán phá giá.

Chuyên gia của Công ty cổ phần Chứng khoán FPT (FPTS) nhận định, triển vọng xuất khẩu xi măng của Việt Nam trong giai đoạn 2025 - 2030 sẽ kém khả quan do nhiều yếu tố tiêu cực.

Thứ nhất, xuất khẩu xi măng thiếu tính bền vững do phụ thuộc lớn vào tình hình sản xuất của Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhiều nước áp thuế tự vệ khiến hoạt động xuất khẩu kém hiệu quả.

Thứ hai, với vị thế là nước xuất khẩu xi măng lớn nhất thế giới, Việt Nam đã tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với ngành xi măng của các quốc gia trong khu vực. Điển hình là Philippines - nước đang tiếp tục áp thuế chống bán phá giá đối với xi măng Việt Nam, với thuế suất dao động từ 3 đến 25% giá xuất khẩu trong vòng 5 năm kể từ năm 2023. Mới đây, nước này còn áp dụng thuế tự vệ tạm thời với một số chủng loại xi măng nhập khẩu.

Thứ ba, ngày càng nhiều đối thủ mới gia nhập thị trường xuất khẩu như Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran - những nước có chi phí sản xuất cao hơn Việt Nam, nhưng vẫn chấp nhận xuất khẩu với giá thấp để giành thị phần, vì cũng đang dư cung trầm trọng.

Để gỡ khó cho ngành và khơi thông xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định giảm thuế xuất khẩu với mặt hàng clinker, xi măng từ 10% xuống còn 5%, áp dụng đến hết năm 2026. Tuy nhiên, dựa trên số liệu thống kê và diễn biến thị trường, từ nay đến cuối năm, khó có đột phá trong hoạt động xuất khẩu. Mặc dù sản lượng xuất khẩu có thể tăng 5-7% nhờ nỗ lực của doanh nghiệp, nhưng ngoại tệ thu về sẽ khó tăng tương ứng, do giá xuất khẩu chưa cải thiện.

Cụ thể, giá xuất khẩu xi măng sang Philippines theo điều kiện FOB cuối năm 2024 chỉ còn 40 - 40,5 USD/tấn, giảm 2 - 3 USD/tấn so với đầu năm 2024 và giảm 8 - 9 USD/tấn so với đầu năm 2023. Giá hiện tại chỉ nhích nhẹ so với cuối năm 2024.

Giá xuất khẩu clinker sang Bangladesh cuối năm 2024 ở mức 28,5 - 29 USD/tấn, giảm 2,5 USD/tấn so với đầu năm 2024 và giảm 10 - 10,5 USD/tấn so với đầu năm 2023. Hiện tại, giá chỉ xoay quanh mức 32 - 34 USD/tấn.

Xuất khẩu xi măng, clinker “hụt hơi” vì thuế quan
Thuế xuất khẩu clinker, cộng với thuế phòng vệ thương mại tại một số thị trường và áp lực cạnh tranh với các “đối thủ” lớn…...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư