Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Sáu, Ngày 22 tháng 11 năm 2024,
Tiêu điểm đầu tư tuần qua
Hà Tĩnh sắp có Khu đô thị 2.000 tỷ đồng; Nghiên cứu đề xuất về sân bay thứ 2 vùng Thủ đô
Hạnh Nguyên (tổng hợp ) - 28/05/2023 09:22
 
Dự án Khu đô thị gần 2.000 tỷ đồng tại Hà Tĩnh sắp có chủ đầu tư; Hà Tĩnh kêu gọi đầu tư 9 dự án du lịch, nghỉ dưỡng có vốn hàng chục ngàn tỷ đồng…

Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.

Bộ Giao thông Vận tải giao nghiên cứu đề xuất của Hà Nội về sân bay thứ 2 vùng Thủ đô

Bộ GTVT vừa có công văn gửi Cục Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Tư vấn thiết kế GTVT (TEDI) về đề xuất quy hoạch cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô trong Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Trước đó, Bộ GTVT đã nhận được nhận được công văn số 1382/UBND-GT ngày 12/5/2023 của UBND TP. Hà Nội đề xuất quy hoạch cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô Hà Nội trong Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Tại văn bản này, UBND TP Hà Nội đề nghị điều chỉnh, xác định tính chất, chức năng cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô Hà Nội là cảng hàng không quốc tế; đồng thời đề nghị Bộ GTVT nghiên cứu, xác định vị trí và các chỉ tiêu quy hoạch để UBND TP. Hà Nội bổ sung vào Quy hoạch Thủ đô đang triển khai, bảo đảm thống nhất.

“Để có đầy đủ cơ sở xem xét, giải quyết, Bộ GTVT đề nghị Cục Hàng không Việt Nam, TEDI (đơn vị tư vấn lập quy hoạch hệ thống cảng hàng không) nghiên cứu nội dung đề xuất của UBND TP. Hà Nội, báo cáo Bộ GTVT phương án xử lý trước ngày 27/5/2023”, công văn của Bộ GTVT do Thứ trưởng Lê Anh Tuấn ký nêu rõ.

Theo lãnh đạo UBND TP. Hà Nội, vùng Thủ đô Hà Nội có quy mô dân số dự báo đến năm 2050 khoảng 21-23 triệu người, tổng diện tích khoảng 24.314km2, cơ bản tương đồng với vùng TP.HCM (quy mô dân số 24-25 triệu người, diện tích khoảng 30.400km2).

Tại đồ án Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được Bộ GTVT trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt đã định hướng quy hoạch 2 cảng hàng không quốc tế cho vùng TP.HCM (gồm Tân Sơn Nhất và Long Thành với tổng công suất khoảng 150 triệu hành khách/năm).

Như vậy, lãnh đạo UBND TP. Hà Nội cho rằng, đối với vùng Thủ đô cũng cần thiết quy hoạch 2 cảng hàng không quốc tế để đáp ứng nhu cầu vận tải tương ứng, đảm bảo an ninh, an toàn hàng không, dự phòng quỹ đất cũng như phân bổ nhu cầu vận tải, tạo động lực phát triển cân đối trên địa bàn Thủ đô.

Căn cứ chủ trương của Trung ương về định hướng quy hoạch cảng hàng không thứ 2 Thủ đô Hà Nội, định hướng quy hoạch vùng Thủ đô đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, UBND TP. Hà Nội đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT điều chỉnh, xác định tính chất, chức năng cảng hàng không thứ 2 Thủ đô Hà Nội là cảng hàng không quốc tế.

Dự án Khu đô thị gần 2.000 tỷ đồng tại Hà Tĩnh sắp có chủ đầu tư 

Sở KH&ĐT Hà Tĩnh vừa công bố kết quả mở hồ sơ đăng ký thực hiện Dự án khu đô thị tại xã Thạch Trung (TP. Hà Tĩnh) và thị trấn Thạch Hà (huyện Thạch Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Công ty CP Hóa dầu Quân đội (MIPEC) là nhà đầu tư đạt yêu cầu sơ bộ năng lực, kinh nghiệm.

Hà Tĩnh đang tiến hành thủ tục lựa chọn nhà đầu tư cho Dự án Khu đô thị gần 2000 tỷ đồng tại TT. Thạch Hà và TP. Hà Tĩnh. Ảnh: Minh Hoạ.
Hà Tĩnh đang tiến hành thủ tục lựa chọn nhà đầu tư cho dự án Khu đô thị gần 2000 tỷ đồng tại TT. Thạch Hà và TP. Hà Tĩnh. Ảnh: Minh Hoạ.

Theo đó, có 2 nhà đầu tư nộp hồ sơ đăng ký thực hiện dự án này là liên danh Công ty Đầu tư bất động sản Âu Lạc Nghệ An - Công ty Cổ phần Đầu tư thương mại và Xây dựng 389; Công ty CP Hóa dầu Quân đội.

Khu đô thị tại xã Thạch Trung và thị trấn Thạch Hà có diện tích đất gần 29.8 ha. Mục tiêu xây dựng nhà ở thương mại và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người dân đầu tư xây dựng nhà ở theo quy hoạch, xây dựng và kinh doanh nhà ở xã hội thấp tầng và cao tầng, xây trung tâm thương mại.

Dự án có sơ bộ tổng chi phí thực hiện 1,958 tỷ đồng; chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khoảng 26.9 tỷ đồng. Thời gian đầu tư không quá 48 tháng kể từ ngày phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư hoặc chấp nhận nhà đầu tư. Nhà đầu tư phải có vốn sở hữu tối thiểu 300 tỷ đồng, tổng giá trị vốn chủ sở hữu và vốn vay nhà đầu tư có khả năng thu xếp tối thiểu là 1,985 tỷ đồng.

Được biết, Công ty CP Hóa dầu Quân đội (MIPEC) có địa chỉ đóng tại N1 - 33B Phạm Ngũ Lão, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. doanh nghiệp này được thành lập đi vào hoạt động từ năm 2003 và do ông Dư Cao Sơn là người đại diện pháp luật.

MIPEC được thành lập vào năm 2003 với các cổ đông sáng lập gồm Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, ngân hàng TMCP Quân đội (HM:MBB), Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Vạn Xuân. Công ty bắt đầu gia nhập thị trường bất động sản vào năm 2005, hiện do ông Dư Cao Sơn là Tổng Giám đốc và là người đại diện pháp luật, ông Sơn còn là Thành viên HĐQT CTCP Bảo hiểm Quân đội (MIC).

Về liên doanh không đạt yêu cầu năng lực, CTCP Đầu tư Bất động sản Âu Lạc Nghệ An, trụ sở tại Hà Nội, được thành lập vào tháng 03/2020 với ngành nghề kinh doanh chính bất động sản. Theo thông tin vốn điều lệ công bố thay đổi lần gần nhất vào tháng 01/2021, Công ty có vốn 20 tỷ đồng, các cổ đông sáng lập gồm bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang nắm 80%, ông Nguyễn Văn hiền 10%, bà Nguyễn Thị Thu 10%. Công ty do ông Nguyễn Văn Hoàn (sinh năm 1990) làm Chủ tịch HĐQT, bà Trang (sinh năm 1992) làm Tổng Giám đốc.

Còn CTCP Đầu tư Thương mại và Xây dựng 389, hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị xây dựng, tư vấn thiết kế, thi công các công trình. Tiền thân trước đây là Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại 389, thành lập vào tháng 02/2017, trụ sở tại TP. Vinh, Nghệ An. Vốn điều lệ ban đầu 2 tỷ đồng và do bà Chu Thị Thủy đứng tên. Trong lần thay đổi giấy phép kinh doanh gần nhất vào tháng 04/2022, vốn điều lệ của Công ty tăng lên 70 tỷ đồng. Các cổ đông sáng lập nắm sở hữu gồm ông Nguyễn Văn Quyền (giữ chức Chủ tịch HĐQT) 91.429%, bà Chu Thị Thủy 5.714%.

Dự án đã được Sở KH&ĐT tỉnh Hà Tĩnh công bố danh mục dự án đầu tư có sử dụng đất mời gọi nhà đầu tư quan tâm đăng ký thực hiện vào hồi cuối tháng 2/2023 và “chốt” thời hạn nộp hồ sơ đăng ký thực hiện dự án trước ngày 7/4/2023.

Với nhà đầu tư đạt yêu cầu sơ bộ năng lực, kinh nghiệm, UBND tỉnh Hà Tĩnh giao Sở Kế hoạch và Đầu tư thông báo, hướng dẫn nhà đầu tư nộp hồ sơ trình quyết định chấp thuận nhà đầu tư theo quy định.

Hậu Giang đầu tư 45 tỷ đồng xây dựng cơ sở hỏa táng cho đồng bào Khmer

Ngày 22/5, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang Hồ Thu Ánh đã ký ban hành Quyết định số 845/QĐ-UBND về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng cơ sở hỏa táng cho đồng bào Khmer tại Chùa ấp 4, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

Mục tiêu đầu tư Dự án nhằm khuyến khích, đảm bảo hình thức mai táng văn minh, phù hợp với truyền thống đồng bào dân tộc Khmer cũng như dân tộc khác.

Chùa Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
Chùa Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long

Địa điểm thực hiện dự án tại xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, với quy mô đầu tư gồm xây mới các hạng mục: nhà hỏa táng; trạm kỹ thuật; san lấp mặt bằng; sân, đường dẫn; cây xanh - thảm cỏ; cổng, tường rào; khu để bồn gas công nghiệp; bể nước, bể lọc; ống thoát khói; điện mạng ngoài; cấp thoát nước mạng ngoài; hệ thống PCCC; chống sét; hệ thống thông tin liên lạc; trạm biến áp. Bên cạnh đó là mua sắm trang thiết bị và các hạng mục khác.

Đây là dự án nhóm C, có tổng mức đầu tư 45 tỷ đồng, từ nguồn vốn sự nghiệp môi trường Trung ương đợt 2 năm 2020 (16,374 tỷ đồng) và ngân sách địa phương (28,626 tỷ đồng).

Thời gian thực hiện dự án: Năm 2020 - 2024.

UBND tỉnh Hậu Giang giao Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh (chủ đầu tư Dự án) chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện theo đúng quy định của Luật Đầu tư công và pháp luật có liên quan.

Tỉnh Hậu Giang hiện có hơn 26.000 người Khmer sinh sống, tập trung chủ yếu ở các huyện Long Mỹ, Vị Thủy (chiếm hơn 3% dân số của tỉnh), và 15 chùa Phật giáo Nam tông Khmer. Thời gian qua, Hậu Giang đã triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh, góp phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất lẫn tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer trong tỉnh.

Quảng Trị chuyển đổi hơn 40 ha rừng để thực hiện 5 dự án

HĐND tỉnh Quảng Trị vừa thông qua nghị quyết chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng với tổng diện tích 44,6545 ha (gồm 44,233 ha rừng trồng sản xuất, 0,4215 ha rừng phòng hộ) để thực hiện 5 dự án.

Đoàn giám sát của Ban kinh tế Ngân sách - HĐND tỉnh Quảng Trị trong chuyến khảo sát Dự án Đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông với đường Hồ Chí Minh nhánh Tây vào ngày 15/5/2023. Nguồn: HĐND tỉnh Quảng Trị.
Đoàn giám sát của Ban Kinh tế Ngân sách - HĐND tỉnh Quảng Trị trong chuyến khảo sát Dự án Đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông với đường Hồ Chí Minh nhánh Tây vào ngày 15/5/2023. Nguồn: HĐND tỉnh Quảng Trị.

Trong đó, có 3 dự án có diện tích rừng được chuyển đổi trên 10 ha, gồm 1 dự án đường giao thông, 2 dự án liên quan đến khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng.

Cụ thể, Dự án Đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông với đường Hồ Chí Minh nhánh Tây (Sở Giao thông vận tải làm chủ đầu tư) có 16,5754 rừng sản xuất và 0,2035 ha rừng phòng hộ được chuyển đổi.

Dự án Đầu tư khai thác titan sa khoáng do Công ty cổ phần Khoáng sản Thanh Tâm thực hiện có 13,6618 ha rừng sản xuất đươc chuyển đổi tại tiểu khu 554, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh.

Dự án Khai thác đất làm vật liệu san lấp tại Mỏ Hải Lệ 1 (giai đoạn 1) do Công ty TNHH MTV Toàn Thịnh Quảng Trị làm chủ đầu tư có 12,7121 ha rừng sản xuất được chuyển đổi tại tiểu khu 815 thuộc xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị.

Ngoài ra, Dự án Đường Khe Van (xã Hướng Hiệp, huyện Đakrông) đi xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa thuộc Dự án Hạ tầng cơ bản cho phát triển toàn diện tỉnh Quảng Trị (BIG2) do Sở Kế hoạch và Đầu tư làm chủ đầu tư cũng được chuyển đổi 0,4127 ha rừng sản xuất và 0,218 ha rừng phòng hộ; Dự án Đồn Biên phòng Hải An (212) do Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị làm chủ đầu tư được chuyển đổi 0,8710 ha rừng sản xuất.

Trong các dự án trên, Dự án Đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông với đường Hồ Chí Minh nhánh Tây (giai đoạn 1, dài 21 km, tổng mức đầu tư gần 230 tỷ đồng) có đến 31,5535 ha rừng cần chuyển đổi.

Tuy nhiên do tiến độ thực hiện dự án gấp rút hoàn thành trong năm 2024, chủ đầu tư (Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Trị) đã cho thi công 7 vị trí đường và đường hai đầu cầu với diện tích khoảng 2,5-3,0 ha (so với tổng tuyến 15 km qua đất rừng trồng của người dân đã khai thác thống nhất bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư) khi đang quá trình hoàn thiện hồ sơ, thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng.

Theo Ban Kinh tế Ngân sách HĐND tỉnh Quảng Trị, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng với diện tích 16,7789 ha rừng để thực hiện dự án (trong đó có diện tích khoảng 2,5-3,0 ha đã giải phóng mặt bằng) để tạo điều kiện cho chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục thi công dự án đảm bảo tiến độ dự án theo chủ trương đầu tư đã phê duyệt.

Đối với phần diện tích còn lại của Dự án là 14,7946 ha đối tượng rừng tự nhiên (gồm 13,3713 ha rừng phòng hộ và 1,4233 ha rừng sản xuất) thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng, Ban Kinh tế Ngân sách đề nghị UBND tỉnh lập hồ sơ để trình Thủ tướng quyết định để sớm đồng bộ triển khai dự án.

Bình Phước thành lập tổ công tác mời gọi đầu tư Nhật Bản 

UBND tỉnh Bình Phước vừa ban hành Quyết định số 809/QĐ-UBND thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Tổ công tác Nhật Bản tỉnh Bình Phước (Japanese Working Group of Binh Phuoc Province).

Tổ công tác do ông Trần Văn Mi, Phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước làm Tổ trưởng, Tổ phó là Giám đốc Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các tổ viên là đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành có liên quan.

Cuối tháng 10/2022, một doanh nghiệp tại Bình Phước đã xuất khẩu lô hàng chế biến thịt gà đầu tiên đến Nhật Bản, mở ra cơ hội đầu tư vào Bình Phước.
Cuối tháng 10/2022, một doanh nghiệp tại Bình Phước đã xuất khẩu lô hàng chế biến thịt gà đầu tiên đến Nhật Bản, mở ra cơ hội đầu tư vào Bình Phước.

Nhiệm vụ của Tổ công tác là cung cấp các thông tin cần thiết về đầu tư, trợ giúp ban đầu cho các tổ chức, cá nhân Nhật Bản tìm hiểu môi trường đầu tư tại tỉnh Bình Phước.

Bên cạnh đó, Tổ công tác còn có nhiệm vụ hỗ trợ giải quyết những khó khăn, vướng mắc của tổ chức, cá nhân Nhật Bản đang hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

Ngoài ra, UBND tỉnh Bình Phước giao Tổ công tác nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào tỉnh. Đồng thời, kết nối các sở, ban ngành, địa phương và các nhà đầu tư hạ tầng trong việc hỗ trợ, hướng dẫn tổ chức, cá nhân Nhật Bản thực hiện các thủ tục đầu tư và hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Bình Phước.

Hiện nay tỉnh Bình Phước đang mời gọi đầu tư các lĩnh vực gồm hạ tầng công nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo; công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là công nghiệp điện tử; công nghiệp công nghệ cao; phát triển đô thị, khách sạn; thương mại dịch vụ; vận tải logistics...

Đây cũng là các lĩnh vực mà nhà đầu tư của Nhật Bản có thế mạnh. Tuy nhiên, hiện nay, đầu tư của Nhật Bản vào Bình Phước ở mức khá thấp so với các tỉnh lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM.

Tính đến cuối năm 2022, mới chỉ có 7 Dự án của nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư vào Bình Phước với tổng vốn đầu tư 22,78 triệu USD.

Cần Thơ thu hồi các dự án chậm triển khai, hoạt động không hiệu quả

Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hồng vừa ký ban hành Công văn số 1752/UBND-KT về việc triển khai thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030.

Theo Công văn nêu trên, thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 308/QĐ-TTg ngày 28/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ giao Giám đốc sở, Thủ trưởng các cơ quan, ban ngành thành phố, Chủ tịch UBND quận, huyện và các cơ quan, đơn vị có liên quan nghiêm túc quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý của các cơ quan, đơn vị được giao.

Đồng thời, đề nghị các sở, ban ngành thành phố và UBND quận, huyện căn cứ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý phối hợp thực hiện, tham mưu UBND thành phố có ý kiến phối hợp với cơ quan bộ, ngành Trung ương thực hiện các hoạt động tại Kế hoạch hành động này.

Chủ tịch UBND thành phố giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng và các cơ quan, đơn vị liên quan thường xuyên theo dõi tiến độ thực hiện các Dự án trên địa bàn; rà soát, phát hiện các dự án chậm triển khai, hoạt động không hiệu quả..., tham mưu UBND thành phố thu hồi theo đúng quy định, tạo quỹ đất thu hút các dự án đầu tư mới, có nhu cầu dịch chuyển sản xuất.

Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban ngành thành phố và UBND quận, huyện xây dựng kế hoạch hàng năm, trong đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu, trình UBND thành phố cụ thể hóa các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp theo đúng quy định nhằm thu hút các nhà đầu tư, tập đoàn quốc tế, các dự án đầu tư quy mô lớn, có tác động lan tỏa.

Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cũng giao Trung tâm Xúc tiến Đầu tư - Thương mại và Hội chợ triển lãm chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Công thương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị có liên quan xây dựng thương hiệu, hình ảnh địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển và chiến lược thu hút đầu tư của thành phố.

Định kỳ trước ngày 20/10 hàng năm (kể từ năm 2023), các sở, ban, ngành, UBND quận, huyện và các đơn vị có liên quan rà soát, báo cáo tình hình triển khai thực hiện gửi về Sở Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, tham mưu UBND thành phố báo cáo về Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo thời gian quy định.

Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ, trên địa bàn thành phố hiện có 86 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 2.267 triệu USD. Trong đó, riêng dự án Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn II (được xây dựng tại Trung tâm Điện lực Ô Môn, có công suất thiết kế 1.050 MW, do các nhà đầu tư: Tổng công ty cổ phần Thương mại Xây dựng và Tập đoàn Marubeni (Nhật Bản) đề xuất, đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phê duyệt Quyết định chủ trương đầu tư cuối năm 2020 và dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư vào ngày 22/01/2021), có tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,3 tỷ USD.

Mỏ cát được đấu giá 380 tỷ ở Quảng Ngãi: Trữ lượng phê duyệt giảm gần một nửa so với dự báo

UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa cho hay, Phó chủ tịch UBND tỉnh Trần Phước Hiền đã ký quyết định phê duyệt trữ lượng khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tại mỏ cát Tịnh An - Nghĩa Dũng, xã Tịnh An và xã Nghĩa Dũng, TP Quảng Ngãi.

Theo quyết định, trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác của mỏ cát này là hơn 1,9 triệu m3.

Cụ thể, trữ lượng địa chất cát làm vật liệu xây dựng thông thường hơn 1 triệu m3; khoáng sản đi kèm là cát làm vật liệu san lấp hơn 924.000 m3.

Mỏ cát Tịnh An - Nghĩa Dũng (trên sông Trà Khúc thuộc xã Tịnh An và xã Nghĩa Dũng, TP Quảng Ngãi) có diện tích khoảng 53,4ha, trữ lượng dự báo khoảng 3,4 triệu m3.

Như vậy, tổng khối lượng cát sau thăm dò, đánh giá trữ lượng là hơn 1,9 triệu m3, thấp hơn 1,5 triệu m3 so với trữ lượng cát dự báo ban đầu mà các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ngãi đưa ra để tổ chức đấu giá.

Trước đó, ngày 12/1/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ngãi phối hợp với Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Ngãi tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở khu vực chưa có kết quả thăm dò đối với mỏ cát này.

Kết quả, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển và Thương mại Bình Minh Miền Trung (địa chỉ trụ sở chính số 308 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, TP Quảng Ngãi) đã trúng đấu giá với số tiền hơn 380 tỷ đồng, vượt gần 15 lần so với giá khởi điểm là 25,9 tỉ đồng.

Sau khi UBND tỉnh Quảng Ngãi có quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá và cấp giấy phép thăm dò, Công ty CP Đầu tư phát triển thương mại Bình Minh Miền Trung đã đổi tên thành Công ty CP Đầu tư phát triển khoáng sản Quảng Ngãi (308 Hai Bà Trưng, phường Lê Hồng Phong, TP Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi).

Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài

Thời gian qua, thu hút đầu tư nước ngoài đã có thành tựu lớn, đưa đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng, quy mô vốn và chất lượng Dự án; góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Để phát huy, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20 tháng 8 năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2020 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 50-NQ/TW; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2022 phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030 và số 308/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2023 phê duyệt kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược.

Năm 2021 và 2022, mặc dù tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động phức tạp, song thu hút đầu tư nước ngoài vẫn đạt được những kết quả khả quan, nhất là về vốn giải ngân, xuất khẩu, nộp ngân sách, tạo việc làm, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay, tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề phát sinh chưa có tiền lệ, vượt khỏi dự báo. Nhiều thách thức đặt ra cho các nước như suy thoái kinh tế, mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu ... Cạnh tranh giữa các nước trong thu hút đầu tư nước ngoài thời kỳ hậu COVID-19 ngày càng gay gắt; xu hướng thay đổi chính sách của các nước nhằm bảo đảm tự chủ chiến lược; việc các nước phối hợp xây dựng các quy tắc quản trị toàn cầu, trong đó có lộ trình áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu vào năm 2024; xu hướng đẩy mạnh điều chỉnh chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu; sự thay đổi chiến lược đầu tư của các Tập đoàn đa quốc gia... đang tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động đầu tư nước ngoài trên thế giới, trong khu vực và tại Việt Nam.

Kinh tế trong nước có những thuận lợi nhưng cũng tồn tại những khó khăn, thách thức đan xen. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng GDP được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam đã được nâng lên mức “ổn định” và “tích cực”; cộng đồng doanh nghiệp trong nước nỗ lực vượt qua khó khăn, tích cực đổi mới, chủ động thích ứng; thu hút đầu tư nước ngoài có tín hiệu phục hồi và khởi sắc. Mặt dù vậy, còn có các thách thức không nhỏ, tiềm ẩn tác động đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Sản xuất, kinh doanh đối mặt với chi phí sản xuất và logistics tăng cao, thiếu nguồn cung và nhất là do chống lạm phát, các thị trường lớn của ta bị thu hẹp, đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu…

Công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài còn có bất cập, có nơi còn thiếu thống nhất, gắn kết giữa các địa phương trong thu hút đầu tư; một số nơi còn có biểu hiện cục bộ, gây khó khăn hoặc chưa chú trọng đến việc thẩm tra, xem xét các tiêu chí về công nghệ, môi trường, lao động; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của nhà đầu tư còn thiếu chặt chẽ trong phối hợp giữa các Bộ, ngành, các cấp. Môi trường kinh doanh chưa có ưu việt đáng kể so với mặt bằng cạnh tranh thu hút đầu tư trên thế giới và tại khu vực, kết cấu hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng mong đợi của nhà đầu tư, mặt bằng sạch còn thiếu và chi phí sản xuất, kinh doanh đang bị đẩy lên cao, nguồn lao động đã qua đào tạo còn yếu và thiếu... Sự liên kết giữa đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, chưa có liên kết về lợi ích cơ bản và bền vững.

Trước tình hình nêu trên và để khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường thu hút và nâng cao chất lượng, hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt và tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:

1. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương tổ chức triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 308/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021- 2030.

2. Chuẩn bị các điều kiện tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư và sản xuất kinh doanh 

a) Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đẩy nhanh việc tổ chức lập, thẩm định quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp để định hướng, sắp xếp, tổ chức về mặt không gian, tạo cơ hội phát triển nhanh và bền vững.

b) Các Bộ, ngành khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật chuyên ngành, theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và bảo đảm khả thi, phù hợp với năng lực thực hiện của cơ quan được phân cấp; kịp thời tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư - kinh doanh. Kiên quyết cắt bỏ thủ tục hành chính không cần thiết, làm tăng chi phí tuân thủ.

c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

- Báo cáo khả năng xây dựng Luật Đầu tư mạo hiểm; Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn làm nhà cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính và các Bộ, ngành liên quan xây dựng giải pháp thu hút đầu tư, hỗ trợ khác ngoài thuế, không trái với quy định và cam kết quốc tế trên tinh thần hài hòa lợi ích các bên, khuyến khích các nhà đầu tư hiện hữu cũng như các nhà đầu tư mới, bảo đảm ứng xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp.

d) Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội: (i) Triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu nhân lực cho nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Tập trung phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và hội nhập (tăng nhanh quy mô, chất lượng đào tạo, ưu tiên đào tạo chất lượng cao, ngành nghề công nghệ mới, thúc đẩy hợp tác công tư, chuyển đổi số trong đào tạo…); (iii) Rà soát, báo cáo về tình hình sử dụng lao động người Việt Nam đã làm việc ở nước ngoài sau khi về nước và đề xuất giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động. Nghiên cứu chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhân tài người Việt Nam tại nước ngoài. Xây dựng cơ chế phối hợp với các Tập đoàn, nhà đầu tư lớn trong nước và nước ngoài để đào tạo theo đơn đặt hàng; (iv) Khẩn trương sửa đổi, bổ sung Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2020, của Chính phủ quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam theo thủ tục rút gọn hoàn thành trong tháng 6 năm 2023, trên tinh thần thông thoáng, thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn tình hình Việt Nam, đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, cũng như nhu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam thời gian tới.

đ) Bộ Khoa học và Công nghệ: trong tháng 6 năm 2023 phải trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 18/2019/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2019 quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng theo hướng đơn giản hóa yêu cầu, thủ tục nhập khẩu dây chuyền sản xuất, trang thiết bị đã qua sử dụng vào Việt Nam phục vụ cho hoạt động dịch chuyển, bảo đảm máy móc, công nghệ nhập khẩu tiên tiến, phù hợp với định hướng thu hút đầu tư; rà soát yêu cầu, trình tự, thủ tục để đảm bảo không tiếp nhận các công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích hợp tác, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.

e) Bộ Thông tin và Truyền thông: Trong Quý III năm 2023 nghiên cứu, đề xuất khung chính sách thử nghiệm và giải pháp đột phá để thu hút các tập đoàn công nghệ số (techfirm) hàng đầu thế giới vào Việt Nam. Rà soát, xây dựng và đề xuất ban hành theo thẩm quyền cơ chế, chính sách về Khu công nghệ thông tin tập trung nhằm hình thành các Khu công nghiệp thông tin tập trung đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới vào đầu tư, nghiên cứu và phát triển. Xây dựng hoặc đề xuất ban hành cơ chế khuyến khích cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam nghiên cứu và phát triển các phần mềm lõi, công nghệ nguồn. Tiếp tục thúc đẩy phát triển hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin tạo thuận lợi để thu hút ĐTNN: phủ sóng mạng 5G, phát triển mạng lưới Internet cáp quang băng thông rộng tốc độ cao, siêu cao tới các khu công nghiệp, hạ tầng cáp quang Gigabit kết nối giữa các địa phương, các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước…

g) Bộ Tài chính: (i) Rà soát những bất cập, chưa đồng bộ của quy định pháp luật về thuế với các quy định đối tượng hưởng ưu đãi thuế của pháp luật chuyên ngành để đề xuất, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định pháp luật về thuế bảo đảm đồng bộ với pháp luật khác có liên quan trong Quý III năm 2023; (ii) Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành và xây dựng lộ trình áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với bối cảnh, tình hình thực tiễn của Việt Nam trình vào Kỳ họp thứ 6 Quốc hội năm 2023; (iii) Trong Quý III năm 2023 trình Chính phủ sửa đổi các quy định về ưu đãi thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia nước ngoài, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài, nhân lực chất lượng cao trong nước để mở rộng nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam. 

h) Bộ Ngoại giao: Thông qua các kênh ngoại giao, đối ngoại, tăng cường việc xúc tiến, quảng bá, xây dựng hình ảnh về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam và định hướng của Chính phủ về phát triển bền vững để góp phần phát triển, đa dạng hóa cơ hội hợp tác đầu tư với các nước đối tác lớn.

i) Bộ Giáo dục và Đào tạo: (i) Trong Quý III năm 2023 trình Chính phủ việc nghiên cứu xây dựng chính sách nâng cao tính cạnh tranh, tạo môi trường hấp dẫn để thu hút có chọn lọc các cơ sở giáo dục nước ngoài đầu tư, xây dựng phân hiệu tại Việt Nam; (ii) Nghiên cứu xây dựng cơ chế khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp liên kết với các cơ sở giáo dục đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao khi có khả năng tiếp thu, làm chủ và khai thác hiệu quả công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam; (iii) Rà soát, tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến thủ tục thành lập và vận hành cơ sở giáo dục trong thực tiễn; bảo đảm đồng bộ giữa quy định của pháp luật; đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền, gắn việc thực hiện trách nhiệm giải trình, nâng cao chất lượng giáo dục.

k) Bộ Công an và Bộ Xây dựng tiếp tục và khẩn trương thực hiện hiệu quả Công điện số 220/CĐ-TTg ngày 5 tháng 4 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác phòng cháy, chữa cháy.

l) Bộ y tế rà soát, đánh giá những vướng mắc, bất cập liên quan đến thủ tục cấp giấy phép lưu hành thiết bị y tế và dược phẩm để sửa đổi, bổ sung Luật Dược, bảo đảm tính toàn diện, thống nhất, khả thi; đáp ứng tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

m) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, ban hành các tiêu chí, điều kiện về suất đầu tư trên một diện tích đất và tiêu chí về số lao động sử dụng theo quy định tại Luật Đầu tư và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, làm cơ sở cho việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và theo dõi, kiểm tra, giám sát.

- Chủ động tiếp cận, nắm bắt vướng mắc, khó khăn của các nhà đầu tư hiện hữu để xác định những khó khăn hiện nay, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật. Khẩn trương xử lý dứt điểm các vướng mắc của doanh nghiệp do khâu thực thi.

- Đối với những dự án quan trọng, có tính lan tỏa, phối hợp các Bộ ngành xây dựng phương án ưu đãi, hỗ trợ để trao đổi với nhà đầu tư, bảo đảm phù hợp quy định pháp luật hiện hành và tính cạnh tranh so với các quốc gia khác.

- Rà soát, xây dựng, điều chỉnh định hướng thu hút đầu tư vào địa bàn phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 của địa phương.

- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chủ động xây dựng và triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư phù hợp, hiệu quả với tình hình mới.

- Định hình không gian sản xuất công nghiệp và các lĩnh vực liên quan đến định hướng của nhà đầu tư, hỗ trợ các địa phương có sự liên kết để giúp cho các dự án đầu tư có hiệu quả.

- Quy hoạch các vùng sản xuất công nghiệp theo hướng phát triển bền vững bảo vệ môi trường, gắn khu công nghiệp liên kết với khu đô thị, khu nhà ở chuyên gia và các điều kiện môi trường sống an toàn, lành mạnh. Hình thành các khu vực sản xuất công nghiệp chuyên sâu góp phần phát triển kinh tế quy mô hướng tới sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa bền vững.

- Kết hợp các công nghệ số mới như công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường để xây dựng bản đồ số về các khu công nghiệp và cụm công nghiệp gắn với mô tả hiện trạng sản xuất để hỗ trợ các nhà ĐTNN có hình dung toàn cảnh và xác định được địa điểm đầu tư phù hợp tại Việt Nam.

3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN 

a) Các Bộ, ngành

- Rà soát các vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư để tổng hợp, kịp thời hướng dẫn xử lý hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định giải quyết vướng mắc. Cắt giảm triệt để thủ tục hành chính rườm rà, gây khó khăn cho nhà đầu tư và người dân.

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các Điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư nhằm phù hợp tiêu chuẩn mới, bảo đảm thẩm quyền quản lý của Nhà nước và chính sách công; hạn chế khả năng việc nhà đầu tư lạm dụng, lợi dụng cơ chế giải quyết tranh chấp Nhà nước - nhà đầu tư.

- Rà soát, đồng bộ các quy định pháp luật liên quan đến đầu tư kinh doanh để tránh hiện tượng chồng chéo, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư.

- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tuyên truyền chính sách, hướng dẫn kỹ lưỡng để các cơ quan nhà nước và nhà đầu tư hiểu, áp dụng đúng các quy định của pháp luật.

- Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ. Xử lý nghiêm các hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà, tiêu cực tới nhà đầu tư.

- Cải cách thủ tục hành chính, áp dụng số hóa các hồ sơ, thủ tục liên quan đến đầu tư kinh doanh góp phần xây dựng Chính phủ điện tử theo các Nghị quyết của Chính phủ.

- Phối hợp thẩm định và đánh giá cẩn trọng về công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, môi trường, suất đầu tư... đối với các dự án ĐTNN trong các lĩnh vực mà nhà đầu tư có dấu hiệu lợi dụng xuất xứ tại Việt Nam để lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, lẩn tránh thuế.

- Tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, chân thành, thực chất, hiệu quả với tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ.

b) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

- Xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển và tổ chức xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu chức năng thuộc khu kinh tế.

- Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tiếp nhận hồ sơ; cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; theo dõi, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện dự án đầu tư; thực hiện chế độ báo cáo đầu tư trên Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư và hướng dẫn nhà đầu tư, doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đầu tư, chế độ báo cáo trên Hệ thống.

- Thực hiện việc xem xét, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và Thông báo góp vốn, mua cổ phần theo đúng danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà ĐTNN.

- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, xây dựng, thuế,... trong quá trình thẩm định và quản lý các dự án ĐTNN, tránh phát sinh khiếu kiện, tranh chấp trong nước và quốc tế.

- Tổ chức thẩm định và đánh giá cẩn trọng về công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, môi trường, suất đầu tư,... đối với các dự án ĐTNN trong các lĩnh vực mà nhà đầu tư có dấu hiệu lợi dụng xuất xứ tại Việt Nam để lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, lẩn tránh thuế.

- Tổ chức thẩm định và thực hiện đầy đủ các quy định về rà soát yếu tố bảo đảm quốc phòng - an ninh đối với các dự án ĐTNN thực hiện tại địa bàn biên giới, hải đảo, khu vực có ảnh hưởng đến quốc phòng - an ninh.

- Rà soát, sửa đổi quy trình, thủ tục nội bộ liên quan đến thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư, bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật về đầu tư và pháp luật liên quan nhưng không gây phiền hà, tăng chi phí của nhà đầu tư.

- Chỉ đạo cơ quan đăng ký đầu tư tổng hợp khó khăn, vướng mắc của các dự án có vốn ĐTNN trên địa bàn, từ đó đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, theo thẩm quyền phải xử lý ngay, cũng như đề xuất sửa đổi luật pháp, chính sách để tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế.

- Hàng năm Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươngchủ trì ít nhất 02 cuộc đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh, thành phố, kịp thời nắm bắt các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và xử lý ngay các vướng mắc thuộc thẩm quyền.

4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động đầu tư 

a) Các bộ, ngành tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý.

b) Ủy nhân dân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:

- Chỉ đạo cơ quan đăng ký đầu tư yêu cầu các doanh nghiệp trên địa bàn thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật. 

- Định kỳ đánh giá tình hình hoạt động của các dự án ĐTNN trên địa bàn để kịp thời phát hiện các trường hợp nhà đầu tư lợi dụng sự thông thoáng của hệ thống pháp luật để thực hiện các hoạt động đầu tư không lành mạnh, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh.

- Có biện pháp xử lý kiên quyết đối với các dự án không triển khai, chậm triển khai và không thực hiện đúng cam kết, đúng quy định. Áp dụng các quy định của pháp luật để chấm dứt hoạt động và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án trên.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các cơ quan đăng ký đầu tư trong việc cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư tại các địa phương.

5. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư. 

a) Tổ chức xúc tiến theo Danh mục quốc gia các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 1831/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2021.

b) Xây dựng và công bố kịp thời danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương.

c) Chủ động tiếp cận, trao đổi với các Tập đoàn lớn về các gói ưu đãi, cơ chế hỗ trợ đầu tư trong khuôn khổ các hoạt động đối ngoại cấp cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ. Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương chủ động tìm kiếm, chọn lọc, tiếp cận, trao đổi, quảng bá cơ hội, vận động các Tập đoàn, nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào Việt Nam, hoặc thông qua các kênh có tầm ảnh hưởng đến người ra quyết định đầu tư để thu hút đầu tư vào Việt Nam.

d) Trên cơ sở bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về việc xây dựng các gói ưu đãi, hỗ trợ đầu tư (hỗ trợ tiền mặt - cash grant, đào tạo lao động, hỗ trợ phát triển hạ tầng, biện pháp ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu…), các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động nghiên cứu, đề xuất các cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh, bổ sung luật pháp, chính sách có tính cạnh tranh hơn nhằm thu hút các dự án đầu tư lớn có tính động lực, lan tỏa trong làn sóng đầu tư mới.

đ) Tăng cường nắm bắt các xu hướng đầu tư quốc tế, xu hướng dịch chuyển đầu tư, chuỗi cung ứng; các tác động đối với Việt Nam để đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nảy sinh; đồng thời, tham mưu các chủ trương phù hợp với sáng kiến, khuôn khổ luật lệ mới nhằm thu hút dòng vốn ĐTNN chất lượng cao trong tình hình mới, đặc biệt là các lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng phát triển như công nghệ số, bán dẫn, vi mạch, lắp ráp sản xuất phần cứng điện tử, sản xuất phần mềm.

e) Xây dựng bộ tài liệu quảng bá, xúc tiến đầu tư theo địa phương và lĩnh vực quản lý; đẩy mạnh tập huấn kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về hợp tác đầu tư nhằm đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư.

6. Tổ chức thực hiện 

a) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động, thực hiện kịp thời các nhiệm vụ được phân công tại Chỉ thị này.

b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và cơ quan liên quan đôn đốc, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Chỉ thị.

Hà Tĩnh kêu gọi đầu tư 9 dự án du lịch, nghỉ dưỡng có vốn hàng chục ngàn tỷ đồng

UBND tỉnh Hà Tĩnh đang khẩn trương hoàn tất những khâu chuẩn bị cuối cùng cho Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh và Xúc tiến đầu tư. Cùng với đó, tỉnh cũng vừa công bố danh mục các Dự án trọng điểm kêu gọi đầu tư đến năm 2030, trong đó có 9 dự án đô thị, nghỉ dưỡng với tổng mức đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng.

Hà Tĩnh công bố 9 Dự án khu du lịch, nghỉ dưỡng kêu gọi đầu tư giai đoạn đến 2030.
Hà Tĩnh công bố 9 dự án khu du lịch, nghỉ dưỡng kêu gọi đầu tư giai đoạn đến 2030.

Trong số các dự án trọng điểm, mang tính động lực được Hà Tĩnh kêu gọi đầu tư đến năm 2030, có loạt dự án du lịch, nghỉ dưỡng  đã được các nhà đầu tư lớn như: T&T Group; Ecopark, Onsen Fuji, GS Holding… đề xuất quy hoạch, xin chủ trương đầu tư.

Cụ thể, dự án Khu đô thị sinh thái, du lịch, vui chơi giải trí bãi nổi Xuân Giang 2 và vùng ven sông Lam có địa chỉ tại xã Xuân Giang 2, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Dự án du lịch, nghỉ dưỡng này có tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng 50.403 tỷ đồng, trên diện tích 464,9 ha. Dự án này từng được Công ty cổ phần Tập đoàn T&T làm đơn vị tài trợ quy hoạch và đề xuất đầu tư vào năm 2020. Nay dự án chuẩn bị được Hà Tĩnh xem xét, đưa vào danh mục dự án kêu gọi nhà đầu tư.

Khu thương mại, dịch vụ, du lịch và thể thao phía Tây Nam của huyện Thạch Hà. Dự án du lịch này có địa chỉ tại xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà, với số vốn đầu tư là 3.600 tỷ đồng, tiền giải phóng mặt bằng dự kiến là 1,5-2,5 tỷ đồng/ha. Hiện trạng đất hiện tại là đất rừng sản xuất giao cho các hộ gia đình, cá nhân; đất sông, suối, kênh, rạch, hồ, ao, đầm và đất giao thông do UBND xã quản lý.

Khu đô thị nghỉ dưỡng và sân golf tại Cẩm Dương, tại địa chỉ xã Cẩm Dương, huyện Cẩm Xuyên cũng là một dự án du lịch nghỉ dưỡng trong điểm được Hà Tĩnh kêu gọi đầu tư trong thời gian tới. Dự án này có tổng mức đầu tư dự án là 3.000 tỷ đồng; dự kiến số tiền giải phóng mặt bằng là 2-2,5 tỷ đồng/ha. Dự án du lịch này chưa xác lập diện tích cho đến khi lập dự án. Hiện trạng đất cũng là đất hỗn hợp, chưa giải phóng mặt bằng.

Tổ hợp dự án khu đô thị, du lịch nghỉ dưỡng và sân golf tại thị trấn Thiên Cầm. Tổng mức đầu tư dự án là 3.000 tỷ đồng, với diện tích là 185ha. Riêng tiền giải phóng mặt bằng sẽ là 900-1.000 tỷ đồng. Hiện trạng đất dự án du lịch này đang là đất hỗn hợp.

Tổ hợp dự án khu đô thị, du lịch và sân gôn Kỳ Nam, tại địa chỉ xã Kỳ Nam, thị xã Kỳ Anh. Dự án có tổng mức đầu tư là 2.000 tỷ đồng; chi phí giải phóng mặt bằng là 500-600 tỷ đồng. Diện tích dự án lên tới 300 ha. Hiện trạng đất là đất hỗn hợp.

Tổ hợp nghỉ dưỡng, sân golf quốc tế Thịnh Lộc, tại xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Dự án này có tổng diện tích là 165 ha và với tổng số tiền đầu tư là 2.000 tỷ đồng; dự kiến tiền giải phóng mặt bằng là 200-300 tỷ đồng. Hiện trạng đất là đất hỗn hợp.

Tổ hợp dự án đô thị, du lịch nghỉ dưỡng Văn Trị, thuộc địa phận hai xã Thạch Văn và Thạch Trị, huyện Thạch Hà. Dự án du lịch này có tổng vốn đầu tư là 1.500 tỷ đồng; giải phóng mặt bằng là 450-600 tỷ đồng. Diện tích là 200ha. Hiện trạng đất là đất hỗn hợp.

Khu đô thị, du lịch nghỉ dưỡng và thể thao Kỳ Ninh, tại xã Kỳ Ninh, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Dự án này cũng chưa xác lập diện tích đầu tư, nhưng tổng vốn dự kiến ban đầu là 1.500 tỷ đồng. Riêng tiền giải phóng mặt bằng dự kiến là 1,5-2,5 tỷ đồng/ha.

Khu đô thị mới Hàm Nghi, nằm trên trục đường Hàm Nghi, huyện Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh. Dự án này được quy hoạch xây dựng trên diện tích 136,8 ha thuộc địa giới hành chính phường Thạch Linh, Hà Huy Tập (TP. Hà Tĩnh) và các xã Thạch Tân, Thạch Đài (huyện Thạch Hà). Tổng mức đầu tư dự án dự kiến khoảng 23.545 tỷ đồng (khoảng 1 tỷ USD).

Hiện trạng đất là đất hỗn hợp, phần lớn là đất nông nghiệp và chưa giải phóng mặt bằng. Riêng tiền giải phóng mặt bằng sẽ là 450 - 600 tỷ đồng. Dự án đã được Hà Tĩnh công bố danh mục dự án kêu gọi nhà đầu tư đăng ký vào năm 2020 và Công ty cổ phần Vinhomes (thành viên Tập đoàn Vingroup) và Công ty TNHH Đầu tư kinh doanh và Phát triển thương mại Việt An trúng sơ tuyển nhưng các nhà đầu tư này đã có có văn bản xác nhận không tiếp tục tham gia dự thầu.

Hiện UBND tỉnh Hà Tĩnh đang hoàn tất hồ sơ kêu gọi nhà đầu tư thực hiện dự án, tất cả 9 dự án đều thông qua hình thức đấu thầu.

Đầu tư tuyến cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, đoạn trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Theo văn bản 3742/VPCP-CN ngày 25/5/2023, về đề nghị cho phép tỉnh Hà Giang tiếp tục đầu tư Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Hà Giang, Phó thủ tướng giao UBND tỉnh Hà Giang tiếp tục đầu tư Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Hà Giang theo Quyết định số 17/2022/QĐ-TTg ngày 28/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ với quy mô 2 làn xe, phạm vi giải phóng mặt bằng theo quy mô 4 làn xe, đảm bảo tiến độ, chất lượng, hiệu quả và đúng quy định. 

Đối với việc đầu tư xây dựng hoàn chỉnh (giai đoạn 1) theo quy mô 4 làn xe, UBND tỉnh Hà Giang phối hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính và Bộ Giao thông - Vận tải rà soát nguồn vốn và khả năng cân đối vốn (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương), báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án triển khai phù hợp.

Về việc đầu tư xây dựng đoạn Tân Quang đến cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, UBND tỉnh Hà Giang chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính rà soát khả năng bố trí nguồn vốn phù hợp với tiến trình và yêu cầu đầu tư theo quy hoạch được duyệt; trường hợp giao cho tỉnh làm chủ quản đầu tư thì cần thống nhất báo cáo Thủ tướng Chính phủ để trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Điều chỉnh tổng mức đầu tư, gia hạn tiến độ thi công cầu Rạch Miễu 2

Bộ GTVT vừa có tờ trình 5390/TTr – BGTVT đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt điều chỉnh Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Dự án đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre.

Có 2 thay đổi quan trọng vừa được Bộ GTVT đề nghị điều chỉnh so với Quyết định số 1741/QĐ-TTg ngày 5/11/2020 về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án.

Theo đó, tổng mức đầu tư mới của Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre được Bộ GTVT đề xuất là 6.810,11 tỷ đồng, sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, trong đó vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 là 5.591,98 tỷ đồng; vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030: 1.218,13 tỷ đồng.

Nếu được phê duyệt, tổng mức đầu tư của Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre sau điều chỉnh sẽ tăng 1.634,66 tỷ đồng so với sơ bộ tổng mức đầu tư đã được phê duyệt tại Quyết định số 1741/QĐ-TTg.

Hai là, Bộ GTVT kiến nghị điều chỉnh thời gian thực hiện dự án Dự kiến từ năm 2021 đến năm 2026 thay vì năm 2025 như kế hoạch ban đầu.

Các nội dung khác sẽ gữ nguyên theo Quyết định số 1741/QĐ-TTg, riêng tổng chiều dài tuyến cập nhật theo kết quả thiết kế chi tiết khoảng 17,6 km.

Theo Bộ GTVT, thực hiện chủ trương đầu tư dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT đã hoàn thành các thủ tục liên quan của dự án như trình phê duyệt khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường làm cơ sở để tổng hợp, phê duyệt dự án đầu tư với tổng mức đầu tư là 5.175,45 tỷ đồng.

Dự án khởi công từ ngày 29/3/2022, khối lượng thực hiện của 6/6 gói thầu xây lắp (299,136/ 3.302,88 tỷ đồng), đạt 9,1% giá trị hợp đồng đã ký.

Công tác giải phóng mặt bằng được tách thành tiểu dự án riêng và giao cho các địa phương triển khai thực hiện, trong đó tỉnh Tiền Giang đã bàn giao được 3,68/7,95km (khoảng 46,3%); tỉnh Bến Tre đã bàn giao được 7,98/9,65km (đạt 83%).

Thời gian qua, Bộ GTVT đã áp dụng nhiều giải pháp, phối hợp chặt chẽ với các địa phương để thúc đẩy tiến độ bàn giao mặt bằng nhưng dự án vẫn bị ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai tại hiện trường.

Đến nay, các tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã thực hiện xong công tác kiểm đếm, phê duyệt đơn giá bồi thường và áp giá; kết quả thực hiện cho thấy kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có biến động lớn làm tăng khoảng 1.964,37 tỷ đồng dẫn đến vượt tổng mức đầu tư được duyệt của dự án.

Việc tăng kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có nguyên nhân chủ yếu là biến động về đơn giá bồi thường tại thời điểm thu hồi đất so với dự kiến, đây là nguyên nhân khách quan, ngoài dự kiến nên theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Xây dựng sẽ được phép điều chỉnh dự án đầu tư.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 43 Luật Đầu tư công năm 2019, Dự án có điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư nên phải thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư trước khi điều chỉnh dự án đầu tư.

Ngoài ra, Dự án chịu tác động lớn từ tiến độ bàn giao mặt bằng phục vụ thi công, dự kiến đến quý IV/2023 mới có thể thi công trên toàn tuyến phía Tiền Giang, đây cũng là đoạn tuyến có yêu cầu xử lý đất yếu với thời gian gia tải lên đến 15 tháng.

Đồng thời, gói thầu XL-02 thi công xây dựng cầu dây văng có thời gian thực hiện hợp đồng 34 tháng, dự kiến hoàn thành trong quý I/2026.

“Do vậy, cần thiết xem xét điều chỉnh thời gian thực hiện dự án để đảm bảo phù hợp thực tế triển khai thi công nhằm bảo đảm thời gian thực hiện của các hạng mục chính của Dự án và chất lượng công trình”, Tờ trình của Bộ GTVT nêu rõ.

Gỡ nút thắt cuối cho cao tốc Bến Lức - Long Thành

VEC và các bộ, ngành liên quan đang khẩn trương hoàn tất những chi tiết cuối cùng liên quan đến phương án bố trí phần vốn còn lại để hoàn thành Dự án Xây dựng đường cao tốc Bến Lức - Long Thành (Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành).

Cuối tuần trước, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã có Công văn số 898/UBQLV-CNHT gửi Bộ Giao thông - Vận tải (GTVT) về phương án bố trí nguồn vốn để hoàn thành các hạng mục còn lại của Dự án.

Điểm đặc biệt trong công văn này là việc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (cơ quan chủ quản của VEC) chỉ đề nghị Bộ GTVT (cấp quyết định đầu tư Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành) một nội dung duy nhất: làm rõ cơ chế thu tiền sử dụng dịch vụ đối với các tuyến cao tốc do VEC đang quản lý, khai thác.

Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho biết, trong các văn bản đề xuất phương án bố trí phần vốn còn lại để hoàn thành Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành, VEC đều đề xuất sử dụng nguồn thu phí nhàn rỗi chưa đến kỳ trả nợ để bố trí vốn cho Dự án. Tuy nhiên, tại Văn bản số 714/BC-VEC ngày 24/3/2023, VEC lại đề xuất chuyển sang “thực hiện theo cơ chế giá” áp dụng theo Điều 24, Luật Phí và lệ phí.

Theo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các dự án đường bộ cao tốc do VEC quản lý, trong đó có cao tốc Bến Lức - Long Thành đã được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển sang cấp phát ngân sách nhà nước một phần từ các khoản vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ; VEC tiếp tục vay lại vốn vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ, nợ vay trái phiếu Chính phủ.

Trường hợp xác định dịch vụ sử dụng đường bộ của các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh thuộc danh mục Nhà nước định giá, thì thực hiện theo quy định tại Nghị định số 149/2016/NĐ-CP ngày 11/11/2016 của Chính phủ.

Đối với dịch vụ sử dụng đường cao tốc do Nhà nước đầu tư, Bộ tài chính có Công văn số 2254/BTC-QLG ngày 13/3/2023 gửi Chính phủ về việc thu hồi vốn đầu tư của Nhà nước đối với các dự án đường bộ cao tốc do Nhà nước đầu tư.

Bên cạnh đó, tại cuộc họp ngày 8/2/2023, lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh đạo Bộ GTVT thống nhất báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao Bộ GTVT chủ trì, nghiên cứu, xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định về việc thí điểm thu hồi vốn đầu tư của Nhà nước đối với các dự án đường bộ cao tốc do Nhà nước đầu tư.

Trước đó, cũng với nội dung trên, Bộ Tài chính đã có Công văn số 4778/BTC-QLN đề nghị Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trao đổi với Bộ GTVT để làm rõ cơ chế thu tiền sử dụng dịch vụ đối với các dự án do VEC quản lý, trên cơ sở đó báo cáo cấp có thẩm quyền hoặc xử lý theo thẩm quyền các nội dung liên quan.

Theo một cán bộ của VEC, việc áp dụng cơ chế thu tiền sử dụng dịch vụ đối với các tuyến cao tốc do VEC đang quản lý, khai thác theo phí hay giá là vấn đề kỹ thuật, không ảnh hưởng đến bản chất dòng tiền cũng như kế hoạch sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để hoàn thiện các hạng mục còn lại của Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành.

“Đây cũng là nguồn vốn khả thi duy nhất để hoàn thiện các hạng mục còn lại của Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành trong bối cảnh Hiệp định vay ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) lần thứ nhất cho đoạn tuyến phía Tây đã đóng vào ngày 30/6/2019, không được gia hạn do tại thời điểm đó vướng mắc về thủ tục pháp lý trong nước”, vị cán bộ này thông tin.

Trước đó, vào tháng 11/2022, Bộ GTVT đã có tờ trình đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành.

Ngoài việc nới tiến độ hoàn thành công trình đến tháng 9/2025, Bộ GTVT đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn và cơ chế tài chính của Dự án, bao gồm việc sử dụng hơn 5.166 tỷ đồng vốn từ nguồn thu phí nhàn rỗi, chưa đến kỳ trả nợ để bổ sung vốn đối ứng, hoàn thiện các đoạn tuyến phía Tây, hệ thống trạm thu phí, nhà điều hành, hoàn thiện nút giao với Quốc lộ 51 và thanh toán các chi phí phát sinh cho các nhà thầu do phải dừng chờ thi công kéo dài…

Theo VEC, tại thời điểm 31/12/2022, đơn vị đang có khoảng 10.700 tỷ đồng, bao gồm: một phần vốn điều lệ được cấp, quỹ đầu tư phát triển chưa sử dụng, nguồn khấu hao tài sản cố định, sửa chữa lớn chưa chi, phải trả nhà thầu, tiền thuế GTGT, thuế và lợi nhuận phải nộp…

Tại Công văn số 4778/BTC-QLN, Bộ Tài chính cho rằng, trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định khoản thu sử dụng các đường cao tốc do VEC quản lý là thu giá dịch vụ và VEC đã hạch toán doanh thu sản xuất - kinh doanh, đảm bảo đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, thực hiện nghĩa vụ thuế, nộp lợi nhuận về ngân sách, trích lập các quỹ theo đúng quy định pháp luật..., thì khoản dư tiền tại ngày 31/12/2022 hình thành từ kết quả sản xuất - kinh doanh và là các nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị VEC căn cứ quy định tại điểm c, khoản 4, Điều 20, Nghị định số 94/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 của Chính phủ về nghiệp vụ quản lý nợ công để thực hiện.

Được biết, vào cuối tháng 3/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thành báo cáo kết quả thẩm định và đang chờ giải trình của Bộ GTVT, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và VEC, trong đó có phương án bố trí phần vốn còn lại để hoàn thành Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

“Căn cứ tình hình tài chính hiện nay, VEC khẳng định, sau khi cân đối trả nợ các khoản vay theo đúng kỳ hạn đã cam kết, nguồn vốn hợp pháp của VEC đảm bảo đủ để cân đối vốn cho các hạng mục, công việc trong Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành”, lãnh đạo VEC cho biết.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư