Thứ Tư, Ngày 19 tháng 03 năm 2025,
Làm rõ quyền khởi kiện của cổ đông
Mai Chúc Hạnh - 18/08/2014 15:00
 
 Nghị định 102/2010/NĐ- CP ngày 15/11/2010/NĐ – CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết về Luật Doanh nghiệp hiện nay chưa làm rõ quyền khởi kiện của Cổ đông Công ty Cổ phần. Luật sư Mai Chúc Hạnh (Phòng Tư vấn, Văn phòng Luật sư Nam Hà Nội) phân tích rõ hơn, pháp luật nên quy định như thế nào về việc này nhằm bảo vệ quyền lợi của các Cổ đông trong Công ty Cổ phần.
TIN LIÊN QUAN
TIN LIÊN QUAN
Nhiều cổ đông ngân hàng sẽ lại... nhịn cổ tức
Hậu M&A, HDBank đã thành một khối thống nhất
Sáp nhập Southern Bank, cú thoát xác tuyệt đỉnh của ông Trầm Bê?
Khi ban kiểm soát của công ty chỉ "tồn tại trên giấy"
Điều lệ, "Hiến pháp" của doanh nghiệp không thể hình thức
Cổ đông thiểu số là ai, được ai bảo vệ?
  Làm rõ quyền khởi kiện của cổ đông  
  Pháp luật đã trao quyền khởi kiện cho Cổ đông Công ty Cổ phần, đồng thời pháp luật cũng quy định các trường hợp được quyền khởi kiện  

Theo Điều 25 Nghị định 102/2010/NĐ – CP ngày 15/11/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết về luật Doanh nghiệp có quy định vềQuyền khởi kiện đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) trong Công ty Cổ phần như sau:

1. Cổ đông, nhóm Cổ đông sở hữu ít nhất 1% số Cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) trong các trường hợp sau đây:

a) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) không thực hiện đúng các quyền và nhiệm vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời quyết định của Hội đồng quản trị; thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty hoặc Nghị quyết của Đại hội đồng Cổ đông;

b) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) đã sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

c) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) đã lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu khởi kiện của Cổ đông, nhóm Cổ đông quy định tại khoản 1 Điều này, Ban kiểm soát phải trả lời bằng văn bản xác nhận đã nhận được yêu cầu khởi kiện và tiến hành các thủ tục khởi kiện theo yêu cầu.

3. Trường hợp Ban kiểm soát không khởi kiện theo yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều này hoặc trong công ty Cổ phần không có Ban kiểm soát thì Cổ đông, nhóm Cổ đông quy định tại khoản 1 Điều này có quyền trực tiếp khởi kiện thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc).

4. Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Như vậy, có thể nhận thấy pháp luật đã trao quyền khởi kiện cho Cổ đông Công ty Cổ phần, đồng thời pháp luật cũng quy định các trường hợp được quyền khởi kiện. Tuy nhiên quy định này có một số hạn chế như sau:  

Thứ nhất, pháp luật không quy định quyền trực tiếp được khởi kiện của Cổ đông Công ty Cổ phần mà phải thông qua Ban kiểm soát. Chỉ khi Ban kiểm soát không khởi kiện thì Cổ đông mới được tiến hành khởi kiện dẫn đến tình trạng thiếu khả thi trên thực tế.

Thứ hai, về trách nhiệm của bị đơn trong trường hợp thực hiện Quyết định, Nghị quyết đã có hiệu lực thi hành mà bị khởi kiện gây thiệt hại cho nguyên đơn chưa được xác định.

Cụ thể, Khoản 2 Điều 27 Nghị định 102/2010/NĐ – CP quy định, thì:

“2. Trường hợp có Cổ đông, nhóm Cổ đông, thành viên Hội đồng thành viên hoặc thành viên Hội đồng quản trị yêu cầu khởi kiện hoặc trực tiếp khởi kiện đối với nghị quyết, quyết định đã được thông qua thì nghị quyết, quyết định bị khởi kiện vẫn tiếp tục được thi hành cho đến khi Tòa án hoặc Trọng tài có quyết định khác.”

Điều này vô hình chung đã làm cho quyền khởi kiện của Cổ đông trở nên không có hiệu quả. Bởi lẽ, trong thời gian chờ phán quyết của Tòa án, Nghị quyết, Quyết định bị khởi kiện vẫn tiếp tục được thi hành, nhưng gây thiệt hại cho Cổ đông khởi kiện thì ai chịu trách nhiệm, nhất là khi các Nghị quyết, Quyết định này đã thực hiện được một khoảng thời gian và có nhiều thay đổi gây bất lợi cho Cổ đông khởi kiện.

Thứ ba, quy định về vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm hạn chế rủi ro do các Quyết định, Nghị quyết của Đại Hội đồng Cổ đông hiện nay chưa được quy định. Điều 102 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 có quy định về biện pháp khẩn cấp: “Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định”. Tuy nhiên đây là trường hợp tạm thời đình chỉ đối với một quyết định mà không phải là hành vi.  Hơn nữa, theo quy định pháp luật việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Trọng tài phải có tài sản bảo đảm hay thủ tục tố tụng kéo dài khiến cho bên khởi kiện (nhóm cổ đông thiểu số) nản lòng, dù quyền lợi bị ảnh hưởng.

Do đó, theo tôi cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của Cổ đông nhỏ trong công ty Cổ phần, đảm bảo quyền và khả năng thực hiện quyền của nhóm Cổ đông này theo hướng như sau:

Một là, các bên có thể vận dụng chính các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 để ràng buộc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân ban hành hoặc thông qua Quyết định, Nghị quyết. Theo đó, khi thông qua các Nghị quyết, Quyết định trái với pháp luật và Điều lệ công ty thì những tổ chức, cá nhân thông qua Nghị quyết, Quyết định đó “phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua quyết định nói trên được miễn trừ trách nhiệm” (khoản 4 Điều 108 Luật Doanh nghiệp 2005).

Hai là, đối với vấn đề hiệu lực của Nghị quyết, Quyết định của Đại hội đồng Cổ đông, LDN và nghị định hướng dẫn thi hành cần có những quy định chi tiết hơn hoặc thống kê về những trường hợp nghị quyết, quyết định có hiệu lực thi hành ngay (giống như quy định về các quyết định được thông qua tại cuộc họp ĐHCĐ với số cổ đông trực tiếp và uỷ quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự và thủ tục triệu tập, nội dung chương trình họp và thể thức tiến hành họp không được thực hiện đúng như quy định - khoản 4 Điều 104 LDN).

Ba là, Luật Doanh nghiệp và các nghị định hướng dẫn thi hành cần chi tiết hơn quy định về bổn phận người quản lý công ty, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông khởi kiện người quản lý, bổ sung quy định bảo vệ lợi ích của cổ đông trong trường hợp hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp.

Bốn là, cần sớm sửa đổi Bộ luật TTDS hoặc ban hành riêng một luật/pháp lệnh theo hướng, nên có một quy định về thủ tục TTDS rút gọn, xây dựng dựng cơ chế khởi kiện áp dụng đối với tranh chấp nội bộ công ty, tránh tình trạng giải quyết kéo dài như hiện nay (2 - 4 tháng, thậm chí 1 - 2 năm) gây ảnh hưởng đến quyền lợi của Cổ đông và góp phần để Doanh nghiệp sớm ổn định tình hình tổ chức và hoạt động.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư