Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Chủ Nhật, Ngày 01 tháng 09 năm 2024,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua:
Loạt ngân hàng được nới room tín dụng; Đã đến lúc đầu tư vào tài sản rủi ro
T.L - 01/09/2024 08:08
 
Nới room tín dụng cho một loạt ngân hàng; nguồn vốn nào để xanh hóa ngành ô tô, ngân hàng dồn dập tăng vốn, đã đến lúc đầu tư vào tài sản rủi ro, giá nhà và lãi suất làm khó người vay... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.
TIN LIÊN QUAN

Đã đến lúc rót vốn vào các tài sản rủi ro?

Tỷ giá trong nước đang hạ nhiệt nhanh chóng, lãi suất tiết kiệm nhích lên, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sắp hạ lãi suất điều hành… Rất nhiều biến số vĩ mô thay đổi đang tác động đến các kênh đầu tư và dòng chảy vốn.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, xu hướng thắt chặt tiền tệ trên thế giới đang dần kết thúc, nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ và nhiều nước châu Âu, sẽ chuyển sang nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Điều này khiến chỉ số USD Index giảm về mức 100 điểm thời gian gần đây.

Diễn biến của đồng bạc xanh trên toàn cầu đang tác động mạnh đến kinh tế trong nước. Tính tới giữa tuần này, giá USD bán ra tại các ngân hàng đã lùi về sát mốc 25.000 VND/USD. So với đầu năm, giá USD bán ra tại Vietcombank chỉ còn tăng hơn 2% so với đầu năm, giảm mạnh so với mức tăng 4% vào cuối tháng 6/2024.

Áp lực tỷ giá hạ nhiệt khiến nhà điều hành có thêm không gian để linh hoạt chính sách tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản cho thị trường. Từ đầu tháng 8/2024 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã một lần giảm lãi suất OMO và 3 lần giảm lãi suất chào thầu tín phiếu. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng cũng đã lùi về mức 4,4-4,5%, thay vì sát mốc 5% như cuối tháng 7, đầu tháng 8. Cùng với sự hạ nhiệt của tỷ giá và lãi suất liên ngân hàng, đà tăng của lãi suất huy động trên thị trường dân cư cũng chậm lại.

Sự biến động của tỷ giá và lãi suất sẽ tác động mạnh đến các kênh đầu tư. Hiện nay, kênh đầu tư ngoại hối không còn hấp dẫn. Ba kênh đầu tư được chú ý nhất là tiết kiệm, chứng khoán và bất động sản.

Trên thực tế, dòng tiền đang dịch chuyển. Số dư tiền gửi tại các công ty chứng khoán tính tới cuối quý II/2024 giảm khoảng 9.000 tỷ đồng so với cuối quý I/2024. Ngược lại, lãi suất huy động tăng 4 tháng qua đã kéo dòng tiền nhàn rỗi quay trở lại ngân hàng. 

Bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc khối nghiên cứu, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) thông tin, tại thời điểm cuối quý II, lượng tiền gửi của khách hàng cá nhân tại các công ty chứng khoán giảm, trong khi lượng tiền gửi tại các ngân hàng niêm yết đã tăng khoảng 6% so với đầu năm, cho thấy nhà đầu tư đang cơ cấu lại danh mục đầu tư của mình.

Tiền gửi cá nhân vào hệ thống ngân hàng cao kỷ lục hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh lãi suất tiền gửi tăng lên, trong khi các kênh đầu tư khác như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tiếp tục khó khăn.

Dù vậy, ông Nghĩa cho rằng, lãi suất huy động sẽ chỉ tăng nhẹ thời gian tới, do Chính phủ sẽ tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Theo chuyên gia này, bất động sản vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn bậc nhất hiện nay.

Cũng theo ông Nghĩa, mặc dù thị trường vàng trong nước đang khá trầm lắng sau loạt động thái của NHNN, song khi Fed giảm lãi suất, cộng thêm căng thẳng địa chính trị trên thế giới, giá vàng sẽ tiếp tục đi lên, thậm chí có thể đạt mức 3.000 USD/oz vào năm 2026.   

Theo các chuyên gia, xu hướng giảm lãi suất trên toàn cầu sẽ ngày càng rõ dần trong thời gian tới. Một khi lãi suất trên thế giới hạ nhiệt, dòng tiền sẽ tìm đến các thị trường mới nổi để tìm kiếm cơ hội sinh lời cao hơn, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, sau một thời gian bán ròng kéo dài, từ đầu tháng 8 đến nay, nhà đầu tư ngoại đã chuyển sang mua ròng trở lại. 

Kinh tế hồi phục khả quan, khả năng được nâng hạng thị trường vào năm 2025 cũng là những yếu tố khiến chứng khoán trở thành kênh đầu tư đáng chú ý nhất giai đoạn tới.

“Chúng tôi cho rằng, môi trường vĩ mô hiện phù hợp với phân bổ vào tài sản rủi ro, bao gồm cổ phiếu”, ông Nguyễn Triệu Vinh, Phó giám đốc đầu tư Công ty Quản lý quỹ Vietcombank nhận định.

Trong khi đó, ông Ngô Thành Huấn, Giám đốc khối tài chính cá nhân Công ty cổ phần FIDT cho rằng, chứng khoán đáng để đầu tư nhất trong nửa cuối năm 2024, vì chứng khoán còn được gọi là “thị trường của sự kỳ vọng”.

Mặc dù vậy, các chuyên gia cũng cảnh báo, nhà đầu tư thận trọng trước thời điểm Fed giảm lãi suất. Trong quá khứ, mỗi lần Fed giảm lãi suất thì VN-Index lại giảm tương ứng, mức giảm tương quan với thị trường Mỹ, một phần do lo ngại suy thoái kinh tế Mỹ, một phần do tác động tâm lý. Tuy vậy, thường thì 1 năm sau khi Fed giảm lãi suất, thị trường lại phục hồi tốt, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thực.

Ông  Phan Lê Thành Long, Tổng giám đốc AFA Group, đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam (VWA) cho rằng, trong ngắn hạn, sau khi Fed giảm lãi suất, VN-Index có thể sẽ điều chỉnh do hiệu ứng chốt lời. Nhiều khả năng sau độ trễ 1 năm, thị trường chứng khoán sẽ tăng, đồng pha với sự phục hồi của nền kinh tế thực.  

Song, ngay cả khi thị trường chứng khoán đi lên, việc lựa chọn mã cổ phiếu nào mang lại hiệu quả cao cũng là thách thức với nhà đầu tư. Được biết, chuyên gia phân tích một số công ty chứng khoán đánh giá cao nhóm cổ phiếu ngành tài chính (đặc biệt là chứng khoán), bất động sản, đầu tư công, may mặc... 

Ngân hàng Nhà nước chính thức nới room tín dụng cho ngân hàng có dư nợ cao

Các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt từ 80% chỉ tiêu Ngân hàng Nhà nước đã thông báo đầu năm 2024 sẽ được điều chỉnh tăng thêm dư nợ tín dụng dựa trên cơ sở điểm xếp hạng.

Kể từ ngày 28/8/2024, tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt từ 80% chỉ tiêu ngân hàng Nhà nước đã thông báo đầu năm 2024 sẽ được chủ động điều chỉnh tăng thêm dư nợ tín dụng dựa trên cơ sở điểm xếp hạng của tổ chức tín dụng. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc bổ sung hạn mức này là sự chủ động của Ngân hàng Nhà nước mà các tổ chức tín dụng không cần phải đề nghị.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng và các quy định về cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ. Tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi và tăng cường triển khai các giải pháp tiết giảm chi phí hoạt động, đơn giản hóa thủ tục cho vay, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số để giảm lãi suất cho vay. Cấp tín dụng đối với khách hàng theo đúng quy định của pháp luật, tăng cường các biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng, đảm bảo chất lượng tín dụng.

Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế và kịp thời có giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.

Trước đó, từ đầu năm 2024, Ngân hàng Nhà nước giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng ở mức khoảng 15% đề ra tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/1/2024. Nếu tính trên cơ sở dư nợ đến cuối năm 2023 khoảng 13,56 triệu tỷ đồng thì sẽ có khoảng 2 triệu tỷ đồng đưa vào nền kinh tế.

Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 26/8, tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 6,63% so với cuối năm 2023, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu định hướng đầu năm. Như vậy, sau khoảng 2/3 năm, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng thêm khoảng 900.000 tỷ đồng. Trong đó, tính riêng giai đoạn từ cuối quý II đến ngày 26/8, tín dụng đã tăng thêm gần 72.000 tỷ đồng.

Trước đó, theo báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 16/8, tín dụng tăng 6,25%. Còn nếu xét thời điểm hết tháng 7, tổng dư nợ toàn nền kinh tế tăng 5,66%, thấp hơn con số ghi nhận vào cuối tháng 6 là 6,1%. Đồng thời, mức tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng không đồng đều. Có tổ chức tín dụng tăng trưởng thấp, thậm chí tăng trưởng âm trong khi một số lại tăng sát chỉ tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đã thông báo.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tín dụng tăng chậm do một số nguyên nhân như nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ vốn là động lực tăng trưởng truyền thống của nền kinh tế vẫn còn gặp khó khăn nhất định. Tín dụng cho lĩnh vực bất động sản vẫn chưa hồi phục hoàn toàn. Tổng giám đốc một ngân hàng cho biết, hiện nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng hiện nay tăng lên, nhưng thời điểm giải ngân rơi vào quý III và đầu quý IV cuối năm nên tăng lãi suất huy động chuẩn bị nguồn.

Tuy nhiên, các nhận định được đưa ra, với những mục tiêu, giải pháp, dự báo được đưa ra cho năm 2024 và kết quả thực hiện trong các tháng đầu năm như trên, có thể thấy rằng, để đạt được tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 14-15% như mục tiêu Ngân hàng Nhà nước đặt ra, các tháng còn lại của năm 2024, hệ thống ngân hàng sẽ phải nỗ lực lớn để cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn tín dụng phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nửa cuối năm, nhưng vẫn kiểm soát được các nguy cơ rủi ro tín dụng.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong nửa đầu năm lãi suất đối với các khoản vay mới và cũ tiếp tục giảm, cho dù lãi suất huy động tăng. Đến cuối tháng 6/2024, lãi suất cho vay bình quân ở mức 8,3%/năm, giảm 0,96% so cuối năm 2023. Còn lãi suất tiền gửi bình quân ở mức 3,59%/năm, giảm 1,08%/năm so cuối năm 2023.

VPBankS cũng lo ngại, tăng trưởng tín dụng 14 - 15%/năm là thách thức lớn do tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức quá cao. Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng tín dụng đạt 6,1%, tương đương 41% mục tiêu Ngân hàng Nhà nước đề ra là 15% và dự phóng của VPBankS là 14,83%. Các ngân hàng tăng trưởng tín dụng cao trong nửa đầu năm là các ngân hàng bán buôn như: LPB, TCB và các ngân hàng bán lẻ có thế mạnh ở khu vực miền nam như ACB, HDB.

Thế nhưng, VPBankS cho rằng, mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14,83% năm nay có thể đạt được khi kỳ vọng vào mùa tiêu dùng, sản xuất kinh doanh vào nửa cuối năm và kỳ vọng thêm vào việc Fed hạ lãi suất, hỗ trợ cho chính sách tiền tệ “đi ngược” thế giới của Việt Nam. 

Ngân hàng nào được nới room tín dụng cao?

Trong báo cáo vừa công bố, VPBanks đánh giá, chính sách này sẽ là động lực cho các ngân hàng cạnh tranh hơn nữa trong việc giành room tín dụng và thị phần. Do đó, chính sách lãi suất sẽ có xu hướng ưu đãi hơn, có lợi cho người đi vay nhưng có thể sẽ phải đánh đổi bằng thu nhập lãi thuần giảm nhẹ.

VPBanks cho biết, các ngân hàng đã hoàn thành mức 80% trở lên (như ACB, HDB, LPB, TCB) sẽ được tăng lên mức 18 - 18,7% room tín dụng. Về tăng trưởng tín dụng toàn ngành, tín dụng toàn hệ thống đến gần cuối tháng 8/2024 tăng 6,63% so với cuối năm ngoái. Mục tiêu của ngành ngân hàng đưa ra và Chính phủ là 15%, tương đương với việc đẩy 8,37% đến hết năm.

Theo VPBanks, nếu các ngân hàng đẩy được 90% room tín dụng được giao từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước không tăng lãi suất điều hành, GDP đạt 6%, tăng trưởng tín dụng toàn ngành có thể đạt 14,83%.

Theo ACB, Ngân hàng sẽ được nới room khoảng 2% trong lần này, tương ứng quy mô tăng trưởng tín dụng tối đa lên từ 17 đến 18% cả năm. Tổng Giám đốc ACB ông Từ Tiến Phát cho rằng, đây là bước đi kịp thời, đón đầu cho tăng trưởng vào cuối năm. Bởi trong mùa kinh doanh cao điểm nhu cầu vốn khách hàng luôn tăng.

Tổng giám đốc MB ông Phạm Như Ánh cũng thông tin, đến ngày 28/8, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng đạt 10,44%, đạt 65,7% chỉ tiêu tăng trưởng được NHNN giao đầu năm. Theo văn bản điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng của NHNN, MB dự kiến sẽ được tăng trưởng thêm 14.000 tỷ đồng.

Các chuyên gia phân tích của MBS nhận định, nhóm ngân hàng thương mại quy mô lớn đang dẫn dắt tăng trưởng tín dụng của cả hệ thống trong khi tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng quốc doanh vẫn đang chậm vì hoạt động trả trước tăng mạnh nhờ lãi suất thấp. MBS cho rằng, một số ngân hàng có thể hy sinh lãi bằng cách giảm lãi suất cho vay, bao gồm: VPB, MBB, TCB và HDB. Nhưng MSB dự báo, tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 14% trong năm 2024 với kịch bản tăng trưởng GDP là 6,5% cho cả năm.

Trong đó, cho vay bán lẻ dự kiến sẽ phục hồi mạnh hơn trong 6 tháng cuối năm 2024 dẫn dắt bởi tài chính tiêu dùng, thẻ tín dụng và cho vay mua ô tô nhờ hiệu ứng từ lãi suất cho vay thấp. Còn với mảng khách hàng doanh nghiệp, MBS dự báo, hoạt động nhập khẩu và xây dựng hạ tầng sẽ là động lực chính cho tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm 2024. 

 Thu nhập giảm tốc, ngân hàng không còn nhiều dư địa tăng trích lập dự phòng

Báo cáo về ngành ngân hàng của MBS nhận định, tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm (6,63%) vẫn còn thấp hơn nhiều so với mục tiêu 14-15% trong năm 2024. Tăng trưởng tín dụng được cải thiện nhanh hơn vào tháng cuối của quý II/2024 so với 5 tháng đầu năm cho thấy sự không chắc chắn trong các tháng tiếp theo. 

Nhóm ngân hàng thương mại quy mô lớn đang dẫn dắt tăng trưởng tín dụng của cả hệ thống trong khi tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng quốc doanh vẫn đang chậm vì hoạt động trả trước tăng mạnh nhờ lãi suất thấp.

“Chúng tôi kỳ vọng tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 14% trong năm 2024 với kịch bản tăng trưởng GDP là 6,5% cho cả năm. Cho vay bán lẻ dự kiến sẽ phục hồi mạnh hơn trong 6 tháng cuối năm 2024 dẫn dắt bởi tài chính tiêu dùng, thẻ tín dụng và cho vay mua ô tô nhờ hiệu ứng từ lãi suất cho vay thấp”, báo cáo nhận định.

Đối với mảng khách hàng doanh nghiệp, MBS dự báo hoạt động nhập khẩu và xây dựng hạ tầng sẽ là động lực chính cho tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm 2024.

Kỳ vọng hoạt động nhập khẩu sẽ tăng 15-16% vào năm 2024, nhờ mức tăng trưởng 18,5% đạt được trong 7 tháng đầu năm 2024.

Trong khi đó, bất động sản đang phục hồi thấp hơn dự kiến, dù MBS nhận thấy một số dấu hiệu phục hồi tích cực, như tỷ lệ hàng tồn kho trên tài sản của các công ty bất động sản tăng nhẹ trong 6 tháng đầu năm 2024; doanh thu thuế liên quan đến đất đai tăng cao được ghi nhận trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ.

Tăng trưởng tín dụng vẫn sẽ tiếp tục phân hóa. Theo các chuyên gia của MBS, các ngân hàng có tiềm năng tăng trưởng tín dụng cao từ nay đến cuối năm là: Các ngân hàng có thể hy sinh NIM bằng cách giảm lãi suất cho vay, bao gồm VPB, MBB, TCB và HDB; Các ngân hàng có chất lượng tài sản vững chắc (ACB, VCB, TCB…); Các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong lịch sử, đã chứng tỏ được khả năng hấp thụ tín dụng tốt.

Lãi suất huy động trên thị trường bắt đầu tăng từ tháng 4/2024, nhưng vẫn ở mức thấp. MBS dự phóng lãi suất huy động 12 tháng của các ngân hàng thương mại lớn có khả năng tăng thêm 50 điểm cơ bản lên 5,2% - 5,5%/năm vào cuối năm 2024.

Lãi suất huy động duy trì ở mức thấp và nhu cầu tín dụng yếu đã làm giảm NIM của hầu hết các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ. NIM cho 6 tháng đầu năm 2024 của các ngân hàng niêm yết giảm 18 điểm cơ bản so với cùng kỳ và 7 điểm cơ bản vào năm 2023, đạt 3,87%.

MBS kỳ vọng lãi suất huy động sẽ tăng nhẹ trong nửa cuối năm 2024, trong khi lãi suất cho vay sẽ giữ nguyên hoặc giảm nhẹ trong nửa cuối năm 2024 để thu hút khách hàng.

"Nhìn chung, NIM của hầu hết các ngân hàng đều giảm trong năm 2024. Năm 2025, giả định nhu cầu tín dụng cao hơn dẫn đến lãi suất cho vay cao hơn sẽ giúp phục hồi NIM của các ngân hàng”, các chuyên gia của MBS nhận định. 

Mặc dù NIM được kỳ vọng sẽ giảm nhẹ trong năm 2024, nhưng MBS vẫn duy trì dự báo rằng lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng theo dõi sẽ tăng trưởng 15,3% so với cùng kỳ. MBS kỳ vọng rằng, việc giảm nhẹ chi phí trích lập cùng với tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) trong nửa cuối năm 2024 so với đầu năm sẽ bù đắp sự sụt giảm từ NIM, giúp tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế được duy trì tương đương với nửa đầu năm.

MBS cũng cho thấy rằng, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn có được mức tăng trưởng lợi nhuận tốt hơn so với nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và nhóm ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ, do nhóm này sẽ dẫn dắt tăng trưởng tín dụng toàn ngành, trong khi nhóm ngân hàng thương mại nhà nước sẽ giữ vai trò duy trì. Đồng thời, NIM của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn sẽ phục hồi mạnh mẽ hơn so với 2 nhóm còn lại.

Ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu lãi suất cao

Cầu tín dụng dần tăng trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm, nên ngân hàng không chỉ tăng lãi suất tiền gửi, mà còn tăng cường phát hành trái phiếu để hút vốn.

ngân hàng BVBank sẽ chào bán 56 triệu trái phiếu, dự kiến phát hành 6 đợt, trong đó đợt 1 là 15 triệu trái phiếu, được chào bán từ nay đến ngày 10/9, lãi suất ở mức 7,9%/năm.

Ông Ngô Minh Sang, Giám đốc Khối Khách hàng cá nhân BVBank chia sẻ, trái phiếu phát hành đợt này nhằm tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ nhu cầu hoạt động kinh doanh, đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng, thỏa mãn các điều kiện bổ sung vốn cấp 2 theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN và các quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Trong khi đó, HDBank phát hành lô trái phiếu ra công chúng có kỳ hạn 7 năm, lãi suất được tính bằng lãi suất tham chiếu cộng thêm biên độ 2,8%/năm, tổng là 7,5%/năm. Trước đó, VPBank phát hành lô trái phiếu đầu tiên trong năm 2024 với tổng giá trị 4.000 tỷ đồng, trái phiếu không có tài sản đảm bảo, có kỳ hạn 3 năm và lãi suất cố định là 5,5%/năm.

Đầu tháng 8/2024, MB phát hành riêng lẻ thành công 4.000 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 3 năm. Đây là trái phiếu không tài sản đảm bảo và có lãi suất cố định ở mức 5,45%/năm. Trước đó, ngân hàng này phát hành thành công 15.000 tỷ đồng trái phiếu không có tài sản bảo đảm trong tháng 6 và tháng 7/2024.

Sau khi huy động thành công hơn 13.000 tỷ đồng trong tháng 7/2024, ACB tiếp tục phát hành thêm 2 lô trái phiếu riêng lẻ trong tháng 8 với quy mô đạt 670 tỷ đồng, lãi suất 6 - 6,1%/năm cho năm đầu tiên. Mới đây, ngân hàng này thông qua phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ lần 2 trong năm 2024 với quy mô tối đa 15.000 tỷ đồng, đây là trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền, không có tài sản và không phải là nợ thứ cấp của ACB.

Hay OCB huy động được 5.000 tỷ đồng từ việc phát hành trái phiếu không tài sản đảm bảo cho nhà đầu tư, kỳ hạn 2 - 3 năm, lãi suất cố định ở mức 5,6%/năm.

Khối ngân hàng nhà nước cũng tăng cường phát hành trái phiếu. Đầu tháng 8/2024, BIDV phát hành thành công hai lô trái phiếu 6 năm và 8 năm, tổng giá trị 2.500 tỷ đồng, đều là trái phiếu không có tài sản đảm bảo và lãi suất cho kỳ đầu tiên lần lượt là 5,58%/năm và 5,88%/năm. Agribank chào bán 10.000 tỷ đồng trái phiếu ra công chúng năm 2024 với lãi suất tham chiếu cộng 2%/năm, tổng là gần 7%/năm.

Chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển nhận định, việc phát hành trái phiếu kỳ hạn dài trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thấp như hiện nay là phù hợp với ngân hàng. Theo đó, các nhà băng có thể hạn chế rủi ro gia tăng về chi phí vốn đầu vào khi lãi suất có xu hướng tăng trở lại. Hiện lãi suất gửi tiết kiệm kỳ hạn trên 12 tháng của ngân hàng thương mại nhà nước khoảng 4,7%/năm, các ngân hàng cổ phần khoảng 5-5,5%/năm. Trái phiếu ngân hàng là một kênh đầu tư an toàn, hiệu quả nếu so với lãi suất gửi tiết kiệm thông thường ở thời điểm hiện tại.

Thống kê của MBS Research cho thấy, lũy kế từ đầu năm, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành đạt hơn 220.800 tỷ đồng, tăng 50,4% so cùng kỳ. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp bình quân trong 8 tháng đầu năm ước khoảng 7%, thấp hơn so với mức trung bình 8,3% của năm 2023. Ngân hàng vẫn là nhóm ngành có giá trị phát hành cao nhất với khoảng 159.200 tỷ đồng, tăng 163% so với cùng kỳ, chiếm 72% tổng giá trị trái phiếu phát hành, lãi suất bình quân 5,5%/năm, kỳ hạn bình quân 4,3 năm. 

Theo dự báo của các nhà phân tích tại MBS Research, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ sôi động hơn trong quý IV/2024, khi nhu cầu vốn của doanh nghiệp phục hồi, thị trường bất động sản bắt đầu ấm dần, nhu cầu mở rộng sản xuất - kinh doanh đang tích cực theo đà phục hồi của nền kinh tế. Đồng thời, các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh phát hành vốn cấp 2 nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay được dự báo dần tăng trưởng.

NHNN cho biết, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 16/8 tăng 6,25% so với cuối năm 2023. Trong khi đó, đến hết tháng 7/2024, tổng dư nợ toàn nền kinh tế tăng 5,66%, thấp hơn con số ghi nhận vào cuối tháng 6 là 6,1%. Tín dụng dự báo tăng tốc trong những tháng cuối năm 2024. Vì thế, các nhà băng tăng cường phát hành trái phiếu với lãi suất cao để hút nguồn vốn…

Công ty xếp hạng tín nhiệm FiinRatings cũng cho rằng, các ngân hàng thương mại áp đảo thị trường sơ cấp với giá trị phát hành trong tháng 7/2024 đạt hơn 27.000 tỷ đồng. Nhóm ngân hàng tiếp tục đóng vai trò chính trong hoạt động mua lại trái phiếu trong tháng qua, chiếm 90% tổng quy mô gần 32.100 tỷ đồng.

Theo Công ty xếp hạng tín nhiệm VIS Rating, các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu tăng trở lại để bổ sung vốn cấp 2 (vốn bổ sung), đáp ứng các quy định về an toàn vốn của NHNN. Từ cuối năm ngoái, các nhà băng phải giảm tỷ lệ tối đa dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn về 30%; cho vay trên tổng vốn huy động dưới 85%... Trong khi đó, huy động tiền gửi chậm lại do mặt bằng lãi suất duy trì mức thấp. Vì thế, nhiều ngân hàng phải xoay qua kênh trái phiếu để bổ sung cơ cấu vốn trung, dài hạn và dùng nguồn lực này tài trợ các Dự án.

FiinRatings cũng dự báo, khối ngân hàng tiếp tục tăng phát hành trái phiếu trong thời gian còn lại của năm, nhằm có thêm vốn trung, dài hạn khi tăng trưởng tín dụng dần khởi sắc. Theo cập nhật của công ty xếp hạng tín nhiệm này, nhiều nhà băng đã đăng ký hoặc dự kiến phát hành trái phiếu từ nay tới cuối năm, như VietinBank 8.000 tỷ đồng, LPBank khoảng 6.000 tỷ đồng, ACB 15.000 tỷ đồng, SHB 5.000 tỷ đồng và BIDV là 4.000 tỷ đồng.

Nguồn vốn nào để “xanh hóa” ngành ô tô?

Việt Nam đang dẫn đầu tốc độ tăng trưởng xe điện ở khu vực ASEAN. Theo dự báo của các chuyên gia BMI Research, sản lượng tiêu thụ ô tô điện tại Việt Nam sẽ ghi nhận mức tăng trưởng kép tới 26% trong giai đoạn 2023 - 2032. Chưa kể, Hà Nội và TP.HCM cũng có kế hoạch thay thế toàn bộ xe buýt thành xe điện. Sản xuất, tiêu dùng xe điện tăng cũng đòi hỏi chi phí đầu tư trạm sạc lớn.

Bộ phận Nghiên cứu toàn cầu HSBC ước tính, chỉ riêng việc lắp đặt đủ hạ tầng sạc xe điện và công suất phát điện tái tạo đủ cho lượng xe điện mới theo dự báo, cần khoảng 12,3 tỷ USD đầu tư trong giai đoạn 2024 - 2040.

Tìm kiếm nguồn tài trợ nước ngoài là một trong những kênh tiếp cận vốn quan trọng nhất của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ô tô xanh. Trên thực tế, nguồn vốn xanh của các tổ chức quốc tế rất lớn, song không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để tiếp cận nguồn vốn này.

Ông Đỗ Lê Ninh, đại diện ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - Khối tư nhân (PSOD) cho biết, ADB đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ tài trợ 100 tỷ USD cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm khí thải carbon tại Việt Nam, trong đó có các Dự án ô tô điện.

Mặc dù kinh phí sẵn sàng tài trợ rất lớn, song đến nay, trong lĩnh vực “xanh hóa” phương tiện giao thông, ADB mới chỉ tài trợ được 1 dự án duy nhất tại Việt Nam. Cụ thể, năm 2022, ADB cung cấp gói tài chính khí hậu trị giá 135 triệu USD để hỗ trợ hoạt động kinh doanh xe điện của VinFast và đầu tư sản xuất mạng lưới trạm sạc công cộng.

Theo ông Vũ Đức Công, quản lý cơ sở hạ tầng và cố vấn chính sách cấp cao, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, nguồn tài chính xanh trên thế giới rất nhiều, nhưng để kêu gọi được nguồn vốn xanh, vấn đề then chốt là phải xây dựng được các đề án, dự án chất lượng.

“Cơ hội để gọi vốn quốc tế rất nhiều, song thách thức cũng không ít. Nếu chúng ta chuẩn bị dự án sơ sài, thì không thể đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế để huy động vốn. Hiện Chính phủ Australia có nguồn tài trợ khoảng 2 tỷ USD thông qua chiến lược phát triển tại ASEAN, song câu hỏi đặt ra là các doanh nghiệp Việt có đủ niềm tin và có chuẩn bị được một dự án khả thi để tiếp cận nguồn tài trợ này hay không? Nếu không thu hút được, nguồn tài trợ này sẽ chảy sang các nước khác”, ông Công cảnh báo.

Các chuyên gia nhấn mạnh, việc hình thành quỹ “tài chính xanh” là một giải pháp cần tính tới để giúp doanh nghiệp đầu tư xe xanh có thể tiếp cận tín dụng. Tất nhiên, muốn nhà tài trợ yên tâm bỏ tiền đầu tư vào quỹ, thì cần có cơ chế hoạt động rõ ràng, minh bạch.

Ngoài nguồn vốn quốc tế, ngành sản xuất, tiêu dùng ô tô xanh trong nước cần có thêm trợ lực từ nguồn vốn ngân sách cũng như việc tạo ra môi trường, hệ sinh thái thuận lợi để phát triển, như hỗ trợ xây dựng hạ tầng, cung cấp nguồn điện cho trạm sạc, bảo lãnh các khoản vay, hỗ trợ lãi suất ưu đãi…

Cầu vốn sản xuất, kinh doanh xe điện và trạm sạc tăng nhanh, song theo ông Huỳnh Tiến Đạt, Giám đốc điều hành Hệ thống trạm sạc EV One, việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng rất khó khăn, do đây là lĩnh vực còn khá mới.

Sản xuất, kinh doanh xe điện và hạ tầng trạm sạc đòi hỏi vốn lớn, thời gian cho vay dài, trong khi thị trường lại rất cạnh tranh, nhiều rủi ro, nên nhiều ngân hàng không dám đầu tư. Tuy nhiên, thay vì đầu tư cho các dự án sản xuất xe điện, hạ tầng trạm sạc…, nhiều ngân hàng đang mạnh tay cho vay ưu đãi với tiêu dùng ô tô điện.

Một số ngân hàng tung ra các gói tín dụng xanh với lãi suất ưu đãi dành cho các dự án phát triển bền vững, bao gồm cả các dự án liên quan đến ô tô động cơ hybrid, xe ô tô điện… Ngoài ra, một số ngân hàng cũng triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi cho vay ô tô điện và ô tô hybrid, lãi suất cho vay giảm 0,1% so với lãi vay ô tô thông thường. Riêng BIDV, trong năm 2023 đã dành gói tín dụng 3.500 tỷ đồng cho ô tô điện với lãi suất ưu đãi.

Thực tế, nhờ sự tăng trưởng của mảng ô tô điện, doanh số cho vay của nhiều ngân hàng tăng vọt trong vài năm trở lại đây. Tại Techcombank, nếu năm 2021 và 2022, dư nợ cho vay mua ô tô, xe máy chỉ ở mức hơn 34.000 tỷ đồng, thì sang năm 2023, dư nợ tăng vọt 31,4%. Tính từ đầu năm 2024 đến ngày 30/6, dư nợ cho vay mảng ô tô, xe máy của ngân hàng này cũng tăng tới 15,6%.

Với MB, năm 2023, tín dụng lĩnh vực ô tô, xe máy tăng 45% và trở thành một trong 2 lĩnh vực cho vay chủ chốt của Ngân hàng. Nửa đầu năm nay, mức tăng trưởng tín dụng của lĩnh vực này tại MB đạt gần 15%.

Nguồn vốn vay tiêu dùng ưu đãi của các ngân hàng đã bổ trợ cho sự phát triển của ngành ô tô xanh. Tuy vậy, ngoài nguồn vốn tín dụng, vốn nước ngoài, các chuyên gia cho rằng, để thúc đẩy chuyển đổi ngành ô tô sang hướng “xanh hóa”, cần có thêm trợ lực của Chính phủ, bao gồm cả vốn và cơ chế, môi trường đầu tư.

Riêng với doanh nghiệp, ngoài nguồn tài trợ vốn từ nước ngoài, cần nghiên cứu tới hướng phát hành trái phiếu xanh để huy động vốn.

Giá nhà và lãi suất cho vay vẫn làm nản lòng người mua

Tín dụng mua nhà vẫn phục hồi rất chậm khi giá nhà cao ngất ngưởng, lãi suất cho vay dù hạ nhiệt so với các năm trước song vẫn đứng ở mức cao.

Theo thống kê của ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính tới cuối tháng 7/2024, tín dụng bất động sản tăng 4,6% so với cuối năm 2023. Trong đó, cho vay kinh doanh bất động sản tăng 10,3%, nhưng cho vay tiêu dùng bất động sản chỉ tăng 1,2%. Chiếm tới hơn 60% cơ cấu dư nợ bất động sản, cho vay tiêu dùng bất động sản phục hồi chậm đã cản bước tăng trưởng dư nợ bất động sản toàn ngành.

Theo các chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán VPBanks, động lực tăng trưởng tín dụng toàn ngành phụ thuộc vào bất động sản, đặc biệt là cầu vay mua nhà. Tuy nhiên, giá nhà neo cao thời gian qua đã khiến người dân ngại vay mua nhà. Trong khi đó, dù lãi suất cho vay mua nhà đã hạ nhiệt song vẫn đứng ở mức cao.

Theo tính toán của Hiệp hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), mỗi gia đình phải có thu nhập ít nhất 35-40 triệu đồng/tháng mới đảm bảo việc chi trả nợ vay và chi phí sinh hoạt hàng tháng. Song mức thu nhập này lại nằm ngoài điều kiện vay gói ưu đãi 120.000 tỷ đồng (thu nhập một người dưới 15 triệu đồng/tháng hoặc cả 2 vợ chồng dưới 30 triệu đồng/tháng).

Không chỉ với gói vay 120.000 tỷ đồng, mà với tín dụng nhà ở xã hội, khả năng trả nợ cũng ngày càng khó khăn với người vay.

Theo Nghị định 100/2024/NĐ-CP của Chính phủ vừa ban hành, lãi suất cho vay mua nhà, thuê nhà ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ tăng từ 4,8%/năm lên 6,6%/năm từ ngày 1/8/2024. Mức tăng tới 38% này khiến nhiều người vay bị sốc.

Theo tính toán của ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM, với mức lãi vay mới này, người mua, thuê mua nhà ở xã hội sẽ bị áp lực không nhỏ với số tiền trả lãi vay hàng tháng. Ví dụ, một gia đình nếu mua nhà ở xã hội giá 1 tỷ đồng và được vay 800 triệu đồng trong 20 năm, thì chi phí trả lãi tăng thêm mà gia đình đó phải chịu là khoảng 14 triệu đồng mỗi năm.

Đối với chủ đầu tư Dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội để bán, cho thuê mua, thì lãi suất cho vay ưu đãi tại Ngân hàng Chính sách xã hội bằng 120% lãi suất cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội quy định trong từng thời kỳ. Như vậy, lãi suất cho vay với chủ đầu tư hiện tại là 7,92%/năm (6,6%/năm x 120%).

Ông Châu cho rằng, lãi suất này chỉ thấp hơn một chút so với lãi suất vay 8%/năm hiện nay của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng và vẫn ở mức cao. Như vậy, lãi suất cho vay nhà ở xã hội hiện nay chưa đủ sức hấp dẫn với cả doanh nghiệp và người mua nhà. 

Bên cạnh đó, giá nhà quá cao, số lượng dự án được mở bán ít ỏi cũng khiến người mua nhà nản lòng, tiếp tục có tâm lý chờ đợi. Thay vì giải ngân các khoản vay mua nhà, nhiều người thậm chí còn tìm cách tất toán các khoản vay cũ. Với tình hình hiện nay, ông Võ Hồng Thắng, Giám đốc đầu tư Công ty DKRA Group cho rằng, thị trường bất động sản sẽ còn trầm lắng, thậm chí sự trầm lắng này có thể còn kéo dài đến hết năm sau.

Bất động sản vẫn là động lực tăng trưởng tín dụng của toàn ngành. Đây là nhóm có nhu cầu vay vốn cao và ổn định, cũng như đi kèm các tài sản thế chấp giúp giảm rủi ro nợ xấu. Tuy nhiên, việc thiếu nguồn cung nhà ở phân khúc giá hợp lý khiến cầu tín dụng mua nhà không thể tăng trưởng từ đầu năm 2023 đến nay.

Người mua nhà kỳ vọng, những gói tín dụng nhà ở xã hội thực sự có ý nghĩa với thị trường như gói tín dụng 30.000 tỷ đồng giai đoạn trước đây. Hiện nay, ngành ngân hàng triển khai gói 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhưng gói này mới giải ngân được 1%. Điều kiện vay chặt chẽ, lãi suất cao, số lượng dự án nhà ở xã hội ít ỏi là nguyên nhân khiến gói tín dụng này bị “ế” và không có mấy tác động tới thị trường.

Trong khi đó, lãi suất cho vay mua nhà, thuê nhà ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội (6,6%/năm) lại quá cao. Theo lý giải của Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng phải đi huy động vốn trên thị trường rồi cho vay, nếu lãi suất cho vay quá thấp thì Ngân sách sẽ phải cấp bù một phần chênh lệch, trong khi nguồn lực ngân sách có hạn. Đây là lý do phải nâng lãi suất cho vay.

Trong khi đó, theo các chuyên gia, lãi suất cho vay mua, thuê nhà xã hội cao sẽ cản trở mục tiêu xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội. Chưa kể, ngành ngân hàng đang chuẩn bị sửa đổi gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, theo đó lãi suất cho vay sẽ giảm 3-5% so với lãi vay của ngân hàng thương mại, tức sẽ ở mức khoảng 5%/năm - thấp hơn cả lãi suất cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay. Đây là điều phi lý.

“Chúng tôi đề nghị giữ nguyên mức lãi vay 4,8%/năm với khoản vay mua nhà ở xã hội tại Ngân hàng Chính sách xã hội để giúp tạo sự ổn định, nhất là trong lúc người mua nhà cũng còn đang gặp nhiều khó khăn”, ông Châu kiến nghị.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư bất động sản Toàn cầu cũng cho rằng, lãi suất cho vay 6,6%/năm là một gánh nặng rất lớn với những cặp vợ chồng có tổng thu nhập không vượt 30 triệu đồng/tháng. Khả năng trả nợ của người mua nhà sẽ cao hơn nếu lãi vay mua nhà ở xã hội ở mức dưới 5%/năm.

Tất nhiên, ngoài câu chuyện lãi suất, nguyên nhân chính khiến người dân chưa mặn mà vay mua nhà là giá nhà đang quá cao so với thu nhập. Hiện nay, tỷ lệ giá nhà ở trên thu nhập của người dân Việt Nam ngày càng tăng cao. Tại Việt Nam, tỷ lệ này đang cao gấp khoảng 4-5 lần so với tỷ lệ khuyến nghị.

Chính vì vậy, các chuyên gia phân tích VPBankS kỳ vọng, các chính sách, cơ chế điều hòa giá nhà đất cho phù hợp với mức thu nhập của người dân và gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội... sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững hơn

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư