Riêng trong tháng 8/2023 có tới 10 đợt phát hành trái phiếu của các ngân hàng với giá trị phát hành lên tới hơn 12.000 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị phát hành trái phiếu toàn thị trường.
Các ngân hàng chiếm tới 47% tổng giá trị phát hành trái phiếu trong tháng 9/2021 với 13.860 tỷ đồng, phát hành nhiều nhất là BIDV, OCB, VietinBank… Nhóm bất động sản đứng thứ hai với gần 8.400 tỷ đồng.
Gần đây, các ngân hàng tăng cường phát hành trái phiếu để huy động vốn dài hạn khi lãi suất giảm, nhằm tăng quy mô nguồn vốn hoạt động, phục vụ nhu cầu cấp tín dụng...
Công ty chứng khoán MB (MBS) dẫn số liệu thống kê của FiinPro cho thấy có khoảng 11.200 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được huy động với kỳ hạn bình quân 3,3 năm trong tháng 8/2020.
Mới đây, Ngân hàng BIDV thông báo mua lại 7.300 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2, trong khi MB công bố mua lại 524 tỷ đồng trái phiếu. Liệu có ẩn tình nào khiến ngân hàng một mặt tăng mua về trái phiếu đã phát hành, mặt khác lại dồn dập phát hành trái phiếu mới?
Làn sóng phát hành trái phiếu quốc tế của ngân hàng xuất hiện sau khi VPBank huy động thành công 300 triệu USD là tín hiệu cho thấy, “sức khỏe” của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tốt lên. Song liệu có rủi ro nào khi lãi suất huy động trái phiếu quốc tế không hề rẻ?
Khát vốn huy động kỳ hạn dài để đáp ứng quy định về giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn hay cải thiện hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn) cho lộ trình đáp ứng chuẩn Basel 2 là những điều được đề cập khi bàn về lý do các ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn các lý do khác.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 1155/QĐ-NHNN về việc cho phép Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kỹ Thương Việt Nam được phát hành trái phiếu năm 2015.