Thứ Năm, Ngày 27 tháng 11 năm 2025,
Thực thi bao trùm hướng tới mô hình tăng trưởng xanh cho Việt Nam
Linh Nguyễn - 27/11/2025 17:00
 
Khi câu chuyện phát triển bền vững không còn dừng ở khẩu hiệu mà đòi hỏi thực thi thực chất, doanh nghiệp và các ngành kinh tế buộc phải tìm ra lời giải chung.

Doanh nghiệp trước yêu cầu xanh hóa

Ở thời điểm mà áp lực chuyển đổi xanh, số hóa và biến động kinh tế toàn cầu cùng lúc đè lên các nền kinh tế, một câu hỏi lớn được đặt ra: Việt Nam sẽ bước vào kỷ nguyên bền vững bằng cách nào? 

Phần lớn các chiến lược hiện nay đều khẳng định vai trò của công nghệ, tài chính xanh hay đô thị thông minh, nhưng câu chuyện thực thi cụ thể, đặc biệt là khả năng kết nối các nguồn lực vẫn còn nhiều khoảng trống.

Phiên thảo luận "Thực thi bao trùm" trong khuôn khổ Hội thảo Phát triển bền vững 2025. Ảnh: Chí Cường

Tại phiên thảo luận “Thực thi bao trùm” trong khuôn khổ Hội thảo Phát triển bền vững 2025 do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 27/11, từ góc nhìn của một tập đoàn công nghệ toàn cầu, ông Phạm Thái Lai, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Siemens khu vực ASEAN và Việt Nam cho rằng công nghệ không chỉ là công cụ hỗ trợ, mà chính là nền tảng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững.

Theo ông Lai, câu chuyện đầu tư công nghệ không thể chỉ nhìn vào chi phí ban đầu. Nếu xét trong cả vòng đời dự án, đa số trường hợp khoản vốn bỏ ra được bù đắp sau 3 - 5 năm, trong khi giá trị hạ tầng và hiệu quả vận hành kéo dài hàng chục năm. 

Chính vì vậy, tư duy đầu tư dài hạn mà ông nhấn mạnh trở thành điều kiện then chốt đối với các doanh nghiệp sản xuất, những đơn vị phải cùng lúc đối mặt với áp lực chi phí và yêu cầu xanh hóa. 

Câu chuyện của Nhựa Tiền Phong là một điển hình, ông Chu Văn Phương, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền Phong kể lại hành trình hơn 60 năm của một doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa liên tục phải cập nhật công nghệ mới để duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.

Ông Chu Văn Phương, Tổng giám đốc Công ty Nhựa Thiếu niên Tiền Phong. Ảnh: Chí Cường
Ông Chu Văn Phương, Tổng giám đốc Công ty Nhựa Thiếu niên Tiền Phong. Ảnh: Chí Cường

Trong ngành nhựa, vốn thường bị nhìn nhận như một ngành có nguy cơ cao về ô nhiễm thì Nhựa Tiền Phong chọn cách đi khác, cập nhật liên tục dây chuyền, máy móc hiện đại, sử dụng nguyên liệu và hóa chất thân thiện hơn với môi trường, tái sử dụng tối đa phế liệu phát sinh trong sản xuất, xử lý chất thải rắn đúng chuẩn.

Tháng 8 vừa qua, sản phẩm của Nhựa Tiền Phong được Hội đồng Công trình xanh Singapore trao chứng nhận bốn lá xanh, mức cao nhất trong hệ thống đánh giá. Theo ông Phương, lợi ích của việc “xanh hóa” không chỉ nằm ở chi phí vận hành được tiết giảm, mà quan trọng là niềm tin của khách hàng, uy tín thương hiệu và vị thế của doanh nghiệp trên các bảng xếp hạng, giải thưởng trong nước và khu vực.

Dù chưa hoàn tất việc triển khai hệ thống ESG, Nhựa Tiền Phong đang phối hợp với các đơn vị tư vấn để rà soát lại toàn bộ hoạt động, xây dựng bộ tiêu chí phù hợp. Với ông Phương, điểm mấu chốt để những bộ khung như ESG không dừng lại ở giấy tờ là tầm nhìn và cam kết thực chất của lãnh đạo, cùng với hệ thống quy trình được chuẩn hóa, đủ khả năng kiểm soát và cải tiến liên tục. 

Con đường đi tới chuẩn ESG là một hành trình dài, nhưng mỗi bước đi nghiêm túc ngay từ khâu đánh giá hiện trạng đã giúp doanh nghiệp nhìn thấy rõ hơn cơ hội phát triển trong tương lai.

Nếu như Nhựa Tiền Phong là minh chứng cho việc một nhà sản xuất vật liệu nội địa có thể từng bước xanh hóa chuỗi giá trị, thì câu chuyện của Keppel lại cho thấy những thách thức rất thực tế khi đưa tư duy ESG vào trong quy hoạch và phát triển đô thị. 

Ông Lee Leong Seng, Giám đốc Bộ phận Phát triển Bất động sản Nhà ở, Khối Bất động sản Keppel Việt Nam cho biết, phát triển bền vững đã trở thành “DNA” của Keppel từ nhiều năm nay, nhưng việc hiện thực hóa tầm nhìn đó trong từng dự án không hề đơn giản.

Thách thức đầu tiên đến ngay từ khâu quy hoạch và lựa chọn quỹ đất là làm sao vừa đảm bảo hiệu quả thương mại, vừa giữ đủ không gian cho mảng xanh, mặt nước, hệ thống tiện ích cộng đồng. 

Ông Lee Leong Seng, Giám đốc Bộ phận Phát triển Bất động sản Nhà ở, Khối Bất động sản Keppel Việt Nam. Ảnh: Chí Cường

Tiếp theo là câu chuyện chi phí, theo đó các giải pháp thiết kế xanh, vật liệu bền vững thường đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cao hơn, kéo theo giá xây dựng và có thể là giá bán tăng lên. Người mua nhà ngày càng quan tâm đến yếu tố môi trường, nhưng không phải ai cũng sẵn sàng trả thêm cho một dự án xanh hơn. 

Theo ông Lee, đây là điểm nghẽn đòi hỏi sự chung tay của Nhà nước, nhà phát triển, ngân hàng và người tiêu dùng, thông qua cơ chế ưu đãi, chính sách khuyến khích và truyền thông đúng mức về lợi ích dài hạn của sản phẩm xanh.

Ở giai đoạn vận hành, Keppel kiên trì tiêu chuẩn công trình xanh cho các dự án bất động sản của mình. Doanh nghiệp ứng dụng hệ thống làm mát thông minh, thiết bị tiết kiệm điện, nước, năng lượng tái tạo như điện mặt trời trên mái tòa nhà, đồng thời triển khai mô hình “Năng lượng như một dịch vụ” (Energy-as-a-Service - EaaS). 

Thông qua trung tâm vận hành tại Việt Nam, Keppel theo dõi, phân tích dữ liệu tiêu thụ năng lượng theo thời gian thực, qua đó giúp khách hàng vừa giảm chi phí, vừa giảm phát thải carbon, đồng thời nâng cao giá trị tài sản về dài hạn.

Chính từ các dự án cụ thể ấy, Keppel nhìn nhận Việt Nam là một trong những địa bàn chiến lược cho chiến lược phát triển đô thị bền vững tại châu Á. Nền kinh tế tăng trưởng tích cực, tầng lớp trung lưu mở rộng, nhu cầu về đô thị thông minh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường ngày càng rõ nét. 

Nguồn lực tài chính quyết định tốc độ chuyển đổi

Tuy nhiên, tất cả những tòa nhà xanh, nhà máy hiện đại hay khu công nghiệp thông minh… đều cần một điều kiện tiên quyết: nguồn vốn đủ lớn, đủ dài hạn, với chi phí hợp lý. Ở góc nhìn tài chính, ông Trịnh Hà, chuyên gia chiến lược Exness Investment Bank, cho rằng bài toán lớn nhất của chuyển đổi năng lượng hiện nay không chỉ là công nghệ, mà là cách huy động nguồn lực để triển khai các dự án quy mô hàng tỷ USD trong bối cảnh lãi suất trong nước còn cao và khả năng cho vay trung, dài hạn của hệ thống tài chính nội địa có giới hạn.

Theo ông, đây chính là không gian để tài chính xanh quốc tế và các công cụ như trái phiếu xanh, các gói tín dụng ưu đãi phát huy vai trò. Thực tế đã có nhiều dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam tiếp cận được nguồn vốn từ các tổ chức tài chính phát triển với lãi suất khoảng 4 - 5%, cộng thêm chi phí thu xếp vốn 1 - 2%, giúp giảm đáng kể gánh nặng lãi vay so với mặt bằng trong nước. 

Ông Trịnh Hà đồng thời lưu ý rằng, dù giá dầu và một số loại nhiên liệu hóa thạch đang ở mức tương đối thấp nhờ dư cung, xu hướng chuyển dịch sang năng lượng tái tạo là không thể đảo ngược. Công suất sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo tăng mạnh, đặc biệt tại Trung Quốc, đã kéo chi phí điện gió, điện mặt trời xuống mức cạnh tranh, thậm chí thấp hơn nhiều nguồn điện truyền thống nếu tính trên cả vòng đời dự án. 

Ông Trịnh Hà, chuyên gia chiến lược Exness Investment Bank. Ảnh: Chí Cường

Các dự báo cho thấy trong vòng 5 năm tới, chi phí điện mặt trời còn có thể giảm thêm, khiến năng lượng tái tạo ngày càng hấp dẫn về kinh tế. Dưới góc nhìn của ông, chính công nghệ là nhân tố khiến xu hướng chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà là một tiến trình bắt buộc trong dài hạn.

Khi nền tảng công nghệ, hạ tầng và tài chính đã được đặt lên bàn, câu chuyện của AEON Việt Nam lại giúp bức tranh thực thi bao trùm trở nên trọn vẹn hơn với trục trung tâm là con người và cộng đồng. Bà Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Giám đốc cấp cao Khối Chiến lược nguồn nhân lực, Thương hiệu và Nhà cung cấp AEON Việt Nam chia sẻ rằng, chiến lược của AEON tại Việt Nam trong giai đoạn tới không chỉ là tăng số lượng trung tâm thương mại hay doanh số, mà là xây dựng một mô hình bán lẻ gắn chặt với trách nhiệm xã hội, phát triển nguồn nhân lực và nâng chuẩn chuỗi cung ứng nội địa.

Về phía nhà cung cấp, AEON lựa chọn chiến lược đồng hành để nâng chuẩn thay vì chỉ siết điều kiện đầu vào. Khoảng 90 - 95% sản phẩm tươi sống bán tại hệ thống AEON là hàng Việt Nam. Doanh nghiệp phân nhóm nhà cung cấp theo mức độ đáp ứng tiêu chuẩn, rồi tổ chức đào tạo định kỳ, chia sẻ xu hướng mới của thế giới, cập nhật quy định của Nhà nước. Đồng thời hợp tác phát triển các dòng nhãn hàng riêng đạt chuẩn chất lượng Nhật Bản. Khi nhà sản xuất trong nước đủ năng lực và tiêu chuẩn, chính AEON sẽ là kênh để sản phẩm Việt bước ra thị trường quốc tế.

Theo bà Huệ, đây là cách mà một doanh nghiệp bán lẻ có thể biến các yêu cầu xanh, bền vững từ phía quốc tế thành động lực đổi mới cho doanh nghiệp Việt, thay vì chỉ là sức ép. 

Siemens: Số hóa sẽ tạo ra cuộc cách mạng mới cho Việt Nam
Công nghệ số đang bước vào giai đoạn bứt phá mạnh mẽ, trở thành yếu tố định đoạt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thập kỷ tới....
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư