
-
Mối lo lây nhiễm chéo sởi trong bệnh viện
-
Bộ Y tế đề xuất đưa vắc-xin phế cầu và ung thư cổ tử cung vào tiêm chủng mở rộng
-
Sorbitol có trong kẹo rau củ Kera - Chất tạo ngọt an toàn hay tiềm ẩn rủi ro?
-
Tin mới y tế ngày 23/3: Thêm một cơ sở y tế đủ điều kiện ghép tạng -
Thuốc Cốm pha hỗn dịch uống Pyfaclor Kid bị thu hồi trên toàn quốc
Bổ sung chi phí hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người
Bộ Y tế đang dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
![]() |
Ảnh minh họa. |
Tại dự thảo, Bộ Y tế đề xuất chi phí đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống gồm các chi phí như khám sức khỏe cho người hiến; kiểm tra các thông số sinh học của người hiến; lấy mô, bộ phận cơ thể người; chăm sóc, phục hồi sức khỏe sau khi hiến.
Chi phí đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết để chữa bệnh gồm các chi phí sau đây: Hồi sức; đánh giá chức năng mô, bộ phận cơ thể để hiến; lấy mô, bộ phận cơ thể người hiến.
Chi phí đối với người ghép mô, bộ phận cơ thể người gồm các chi phí sau đây: Kiểm tra các thông số sinh học; ghép mô, bộ phận cơ thể người; phục hồi sức khỏe; tái khám định kỳ và thuốc chống thải ghép.
Dự thảo nêu rõ, trong trường hợp người ghép mô, bộ phận cơ thể người được điều phối mô, bộ phận cơ thể người từ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác, ngoài các chi phí nêu trên, còn có chi phí vận chuyển mô, bộ phận cơ thể người.
Bộ Y tế quy định người dưới 18 tuổi hiến mô khi còn sống phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ hợp pháp.
Dự thảo sửa đổi điều 5 như sau: Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết: Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết. Trường hợp người dưới 18 hiến mô, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống: Người từ đủ ba mươi tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được hiến bộ phận cơ thể của mình khi còn sống cho bất kỳ người chờ ghép nào mà không nêu đích danh người được ghép;
Người từ đủ 18 trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được hiến bộ phận cơ thể của mình khi còn sống cho cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột với người được ghép;
Người từ đủ 16 trở lên được hiến mô của mình khi còn sống. Trường hợp người dưới 18 hiến mô khi còn sống phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ hợp pháp. Người từ đủ 18 trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến xác của mình sau khi chết.
Mất giọng nói vì ung thư thanh quản do hút thuốc
Với thói quen hút thuốc suốt hơn 4 thập kỷ, ông D. bắt đầu gặp phải các triệu chứng bất thường từ đầu năm 2024, bao gồm đau họng và khàn tiếng kéo dài mà không rõ nguyên nhân.
Dù đã đi khám tại nhiều cơ sở y tế và được chẩn đoán là hẹp dây thanh quản, điều trị theo đơn thuốc nhưng tình trạng không cải thiện.
Đến tháng 12/2024, ông D. xuất hiện thêm các triệu chứng như ho khạc đờm đục, khó thở khi gắng sức, ngạt mũi, ù tai và mệt mỏi.
Ông được nhập viện tại bệnh viện gần nhà và điều trị kháng sinh trong 10 ngày, nhưng tình trạng vẫn không cải thiện. Sau đó, gia đình đưa ông đến bệnh viện khám và điều trị.
Tại đây, các bác sỹ chuyên khoa hô hấp và tai mũi họng đã tiến hành kiểm tra và phát hiện ông D. có tình trạng viêm phổi kèm giãn phế quản.
Tuy nhiên, qua nội soi, các bác sỹ phát hiện một khối u sùi ở thanh quản, nghi ngờ ung thư. Để đánh giá mức độ xâm lấn và tiến hành sinh thiết, bác sỹ đã chỉ định mở lỗ thông khí quản và thực hiện nội soi thanh quản để quan sát toàn bộ khối u.
Kết quả nội soi cho thấy khối u đã lan rộng toàn bộ thanh quản trái, lan tới mép dây thanh. Sau khi sinh thiết, kết quả xác nhận khối u là ung thư biểu mô tế bào vảy.
Do ung thư đã tiến triển và có nguy cơ di căn, các bác sỹ khuyến cáo ông D. cần phải cắt bỏ hoàn toàn thanh quản và nạo hạch vùng cổ để ngăn ngừa sự di căn của tế bào ung thư.
Quyết định này đồng nghĩa với việc ông D. sẽ phải hy sinh giọng nói tự nhiên của mình. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, gia đình và ông D. đã đồng ý thực hiện phẫu thuật.
Ca mổ kéo dài hơn 5 tiếng, với nhiều phức tạp do ông D. có tình trạng suy hô hấp và viêm phổi. Các bác sỹ đã thực hiện phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn thanh quản, bóc tách các vùng cơ và dây thần kinh để nạo vét các hạch vùng cổ, đồng thời tạo lỗ mở khí quản vĩnh viễn cho bệnh nhân để duy trì khả năng thở. Sau ca phẫu thuật, ông D. đã được theo dõi nội trú 9 ngày và dần hồi phục sức khỏe.
Mặc dù phẫu thuật thành công và đã loại bỏ khối u ác tính, ông D. sẽ phải đối mặt với thử thách mới trong cuộc sống. Giọng nói tự nhiên của ông đã mất đi do thanh quản bị cắt bỏ. Tuy nhiên, ông vẫn có thể luyện tập nói giọng thực quản hoặc sử dụng van giọng nói và máy phát âm thanh.
Chức năng nuốt cũng bị ảnh hưởng, và ông D. sẽ cần tập luyện để có thể nuốt bình thường sau mổ. Dù vậy, ông D. vẫn phải theo dõi định kỳ để kiểm soát tình trạng bệnh, đồng thời xem xét khả năng sử dụng xạ trị hoặc hóa trị để ngăn ngừa ung thư tái phát.
Ung thư thanh quản là một bệnh lý ác tính ảnh hưởng đến giọng nói, khả năng hô hấp và nuốt. Theo thống kê của Globocan 2022, ung thư thanh quản chiếm khoảng 0,95% tổng số ca ung thư mới trên toàn cầu, với tỷ lệ mắc bệnh ở Việt Nam khoảng 1,2%, đặc biệt phổ biến ở nam giới.
Các yếu tố nguy cơ chính của ung thư thanh quản bao gồm hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, trào ngược dạ dày và tiếp xúc với các hóa chất độc hại. Việc phát hiện sớm ung thư thanh quản đóng vai trò vô cùng quan trọng, bởi vì khi bệnh tiến triển đến giai đoạn muộn, khả năng chữa trị thành công sẽ giảm đi rất nhiều.
Các bác sỹ khuyến cáo, khi có dấu hiệu rối loạn giọng nói như khàn tiếng kéo dài, ho kéo dài, đau họng hoặc khó thở, người bệnh cần đi khám ngay để phát hiện ung thư thanh quản sớm. Đặc biệt, người có thói quen hút thuốc lá hoặc uống rượu bia nên chủ động khám sức khỏe định kỳ để phát hiện và ngăn ngừa bệnh lý này.
Một lối sống lành mạnh, tránh xa thuốc lá, hạn chế bia rượu và duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý không chỉ giúp giảm nguy cơ ung thư thanh quản mà còn phòng ngừa được nhiều loại ung thư khác.
Thuốc sinh học mở ra cơ hội mới cho bệnh nhân vảy nến
Sự ra đời của thuốc sinh học đã mang lại hy vọng mới cho những bệnh nhân mắc vảy nến, đặc biệt là những trường hợp vảy nến mức độ nặng, giúp kiểm soát triệu chứng và cải thiện chất lượng sống.
Tuy nhiên, liệu pháp điều trị này không áp dụng cho mọi trường hợp và cần thận trọng khi sử dụng cho những bệnh nhân có bệnh nền, phụ nữ mang thai, trẻ em, hay các nhóm bệnh nhân đặc biệt khác.
Bác sỹ CKI Võ Thị Tường Duy - người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân cho biết, hiện có khoảng 125 triệu người trên thế giới đang sống chung với bệnh vảy nến.
Bệnh này có tỷ lệ mắc tương đương ở cả nam và nữ, thường khởi phát ở hai nhóm tuổi chính là 20-30 và 50-60 tuổi. Tuy nhiên, vảy nến có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, từ trẻ sơ sinh đến người lớn tuổi, và 35%-90% trường hợp có yếu tố di truyền.
Bệnh vảy nến không chỉ là vấn đề da liễu mà là bệnh viêm hệ thống, biểu hiện bằng các mảng đỏ da, bong vảy, đôi khi gây ngứa và đau.
Khoảng 1/3 bệnh nhân mắc vảy nến ở mức độ trung bình và nặng, gây ảnh hưởng đến tâm lý, chất lượng sống và khả năng làm việc, nhưng hiện vẫn chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn.
Từ năm 2003, thuốc sinh học đã được đưa vào sử dụng điều trị vảy nến và mang lại hiệu quả khá cao, ít tác dụng phụ nghiêm trọng hơn so với các phương pháp khác.
Tuy nhiên, do giá thuốc sinh học khá cao tại Việt Nam, phác đồ điều trị vẫn ưu tiên thuốc bôi và thuốc toàn thân. Thuốc sinh học chỉ được chỉ định cho bệnh nhân có vảy nến mức độ trung bình đến nặng hoặc khi bệnh không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác.
Mặc dù thuốc sinh học có những ưu điểm vượt trội, nhưng nó cũng tiềm ẩn một số tác dụng phụ, như nguy cơ kích hoạt nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt là đối với bệnh nhân viêm gan siêu vi, lao tiềm ẩn, phụ nữ mang thai và trẻ em. Vì vậy, việc cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro trong từng trường hợp điều trị là rất quan trọng.
Bác sỹ CKI Võ Thị Tường Duy nhấn mạnh, cần phải tầm soát lao và viêm gan siêu vi trên tất cả bệnh nhân vảy nến trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc sinh học.
Những bệnh nhân vảy nến nhiễm lao tiềm ẩn (bệnh lao không hoạt động), viêm gan siêu vi B (HBV) và viêm gan siêu vi C (HCV) có thể điều trị bằng thuốc sinh học, nhưng cần phải tuân thủ phác đồ điều trị đa chuyên khoa, phối hợp giữa bác sỹ chuyên khoa da liễu và các bác sỹ chuyên khoa lao, gan, nhiễm, tiêu hóa.
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân cần phải theo dõi và xét nghiệm các chỉ số như ALT (biểu hiện tổn thương gan), HBV DNA (virus viêm gan B), HCV RNA (virus viêm gan C) mỗi 3 tháng.
Với bệnh nhân nhiễm HCV, thuốc ức chế TNF-α và Ustekinumab là lựa chọn ưu tiên vì dung nạp tốt, ít ảnh hưởng đến gan. Riêng đối với bệnh nhân nhiễm lao tiềm ẩn và HBV, thuốc ức chế IL12/23, IL23 được ưu tiên sử dụng vì ít rủi ro hơn so với thuốc ức chế TNF-alpha.
Thạc sỹ bác sỹ CKI Trần Nguyễn Anh Thư khuyến cáo, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản cần phải có biện pháp tránh thai khi sử dụng thuốc sinh học.
Nếu có kế hoạch mang thai, bệnh nhân cần tham khảo ý kiến bác sỹ để lựa chọn nhóm thuốc phù hợp với thai kỳ. Đặc biệt, đối với phụ nữ mang thai bị bùng phát vảy nến, nhóm thuốc ức chế TNF-alpha là lựa chọn ưu tiên, nhưng có thể cân nhắc Secukinumab hoặc Ustekinumab nếu không có lựa chọn khác.
Với trẻ em, thuốc sinh học có thể được sử dụng (như Etanercept, Adalimumab, Ustekinumab, Secukinumab, Ixekizumab) theo phác đồ Bộ Y tế, nhưng cần lưu ý về độ tuổi và cân nặng để chọn liều thuốc phù hợp. Tuyệt đối không tiêm ngừa vắc xin sống cho trẻ em đang điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học, bác sỹ Thư nhấn mạnh.
Tiến sỹ bác sỹ Đặng Thị Ngọc Bích cho biết thêm, nếu phụ nữ đang điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học muốn có thai, họ phải ngừng thuốc ít nhất 20 tuần trước khi mang thai theo đúng phác đồ của Bộ Y tế.
Trường hợp có thai ngoài ý muốn trong khi đang điều trị thuốc sinh học, bệnh nhân không được tiếp tục sử dụng thuốc sinh học trong 3 tháng cuối của thai kỳ. Đồng thời, không tiêm vắc xin sống cho trẻ sinh ra từ mẹ đã điều trị vảy nến bằng thuốc sinh học trong 6 tháng đầu đời.
Thuốc sinh học là phương pháp điều trị hàng đầu cho bệnh vảy nến nếu không có chống chỉ định. Tuy nhiên, đối với bệnh nhân có bệnh nền, phụ nữ mang thai, trẻ em hoặc những trường hợp đặc biệt khác, việc sử dụng thuốc sinh học cần được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ và phối hợp đa chuyên khoa. Điều này giúp đảm bảo việc kiểm soát tốt bệnh vảy nến và giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra, đồng thời cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân.
Viêm tai giữa thủng nhĩ mà người bệnh không hề hay biết
Chị N.T.H. (35 tuổi, TP.HCM) đã trải qua một thời gian dài đối mặt với triệu chứng chảy dịch tai, ù tai và đau tai. Ban đầu, chị tự mua thuốc điều trị, nhưng khi các triệu chứng trở nên nghiêm trọng hơn, chị mới quyết định đi khám. Tại bệnh viện, kết quả khám cho thấy chị bị thủng màng nhĩ do viêm tai giữa, và phải thực hiện phẫu thuật để khắc phục tình trạng này.
Viêm tai giữa là tình trạng nhiễm trùng tai giữa, khiến dịch viêm chứa vi khuẩn hoặc virus tích tụ trong tai giữa. Khi dịch này không được dẫn lưu, áp lực tăng lên và làm màng nhĩ bị thủng. Nếu không điều trị kịp thời và đúng cách, tình trạng này có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như suy giảm thính lực, nhiễm trùng tái phát, hoặc thậm chí lan lên não.
Thạc sỹ bác sỹ CKI Phạm Thị Phương, chuyên gia tai mũi họng của Bệnh viện Đa kho Tâm Anh TP.HCM cho biết, nhiều bệnh nhân không nhận ra mình bị viêm tai giữa, dẫn đến việc không điều trị kịp thời.
Chị H. là một trong những trường hợp này, khi bị thủng màng nhĩ vì viêm tai giữa không được xử lý đúng cách, gây ra các biến chứng như ứ dịch trong tai giữa và suy giảm thính lực.
Để điều trị tình trạng này, chị H. được bác sỹ chỉ định điều trị nội khoa trong vòng 2 tuần để ổn định nhiễm trùng. Sau đó, chị phải thực hiện phẫu thuật vá màng nhĩ. Ca phẫu thuật kéo dài khoảng 90 phút, bao gồm việc làm sạch mô viêm và đặt mảnh vá vào vị trí lỗ thủng trên màng nhĩ.
Hậu phẫu, bệnh nhân cần kiêng một số hoạt động như xì mũi mạnh, tránh đi máy bay trong 6 tháng, không nằm nghiêng lên tai vừa mổ và tránh vận động mạnh trong vài tuần đầu. Bác sỹ cũng khuyến cáo bệnh nhân uống thuốc theo đúng chỉ định và tái khám đúng hẹn.
Theo bác sỹ Phương, không phải tất cả các trường hợp thủng màng nhĩ đều cần phẫu thuật. Thông thường, nếu thủng màng nhĩ không kèm theo nhiễm trùng nặng và tổn thương tai trong, vết thủng có thể tự lành mà không cần điều trị đặc biệt, với thời gian tự lành từ 4-6 tuần. Tuy nhiên, nếu tình trạng này không được cải thiện, gây nhiễm trùng hoặc mất thính lực, phẫu thuật vá màng nhĩ sẽ là giải pháp cần thiết.
Bác sỹ Phương nhấn mạnh rằng viêm tai giữa là một bệnh lý không thể xem nhẹ, vì nếu không điều trị đúng cách, có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng như thủng màng nhĩ, mất thính lực, thậm chí viêm não hoặc màng não.
Do đó, khi có triệu chứng như đau tai, ù tai, chảy dịch tai, người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế có chuyên khoa Tai Mũi Họng để được khám và điều trị kịp thời.
Ngoài ra, bệnh nhân cũng cần tuân thủ đầy đủ chỉ định của bác sỹ, không tự ý ngừng thuốc khi các triệu chứng đã giảm để tránh tình trạng lờn thuốc và khó khăn trong điều trị sau này.
Việc phát hiện và điều trị sớm viêm tai giữa không chỉ giúp ngăn ngừa biến chứng mà còn bảo vệ sức khỏe tai mũi họng và chất lượng sống của bệnh nhân.
-
Hà Nội tiếp tục yêu cầu rà soát, đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vắc-xin sởi -
Tin mới y tế ngày 24/3: Bộ Y tế đề xuất quy định mới về hiến, ghép tạng, hiến tế bào gốc -
Mối lo lây nhiễm chéo sởi trong bệnh viện -
Bộ Y tế đề xuất đưa vắc-xin phế cầu và ung thư cổ tử cung vào tiêm chủng mở rộng -
Sorbitol có trong kẹo rau củ Kera - Chất tạo ngọt an toàn hay tiềm ẩn rủi ro? -
Phòng tránh căn bệnh ung thư gây tử vong lớn thứ hai ở Việt Nam -
Tin mới y tế ngày 23/3: Thêm một cơ sở y tế đủ điều kiện ghép tạng
-
SeABank thông báo mời thầu
-
Hai tổ chức tài chính thuộc Chính phủ Pháp và Hà Lan đầu tư 80 triệu USD cho SeABank
-
Công bố Top 10 doanh nghiệp ESG Việt Nam xanh 2025 - ngành bán lẻ
-
Stown Gateway ra mắt chính sách thanh toán 0 đồng đến khi nhận nhà
-
Yên Bình New Horizon bùng nổ giao dịch ngay tại dự án mỗi ngày
-
Công bố Top 10 ngân hàng - ESG Việt Nam Xanh 2025