Thứ Hai, Ngày 04 tháng 08 năm 2025,
Viêm não Nhật Bản: Căn bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc-xin
D.Ngân - 04/08/2025 09:11
 
Viêm não Nhật Bản là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút thuộc họ Flavivirus, lây truyền từ động vật sang người qua muỗi, đặc biệt là muỗi Culex.

Bệnh thường gặp tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Viêm não Nhật Bản (VNNB) là nguyên nhân hàng đầu gây viêm não và các di chứng tâm thần kinh do vi rút tại khu vực này.

Ước tính có khoảng 3 tỷ người sống trong vùng nguy cơ của 24 quốc gia châu Á, trong đó 700 triệu là trẻ em dưới 15 tuổi.

Tại Hội thảo khoa học chuyên đề nhằm cập nhật thông tin về vắc-xin phòng chống viêm não Nhật Bản và sốt xuất huyết vừa được tổ chức, GS-TS.Vũ Sinh Nam, Hội Y học Dự phòng Việt Nam cho biết, tỷ suất mắc bệnh dao động từ 1,8 đến 64 ca trên 100.000 dân mỗi năm, và trẻ dưới 15 tuổi là nhóm dễ mắc nhất.

Viêm não Nhật Bản là bệnh lý nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong và di chứng cao, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc-xin.

Tại các vùng dịch lưu hành, gần như toàn bộ trẻ em đến tuổi trưởng thành đều có kháng thể dương tính với vi rút VNNB, cho thấy mức độ phơi nhiễm rất cao.

Tuy nhiên, thống kê toàn cầu về tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản hiện vẫn chưa rõ ràng do sự khác biệt về mức độ giám sát và khả năng xét nghiệm giữa các quốc gia.

Ước tính có khoảng 67.900 ca bệnh mỗi năm, với tỷ lệ tử vong lên đến 30% và khoảng 50% bệnh nhân sống sót phải đối mặt với các di chứng thần kinh nặng nề như rối loạn vận động, động kinh hoặc suy giảm nhận thức.

Bệnh lưu hành quanh năm ở các vùng nhiệt đới như miền Nam Ấn Độ, Nam Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia; trong khi đó, tại các quốc gia ôn đới như miền Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và miền Nam nước Nga, VNNB xuất hiện theo mùa.

Một tiền nghiên cứu được thực hiện từ tháng 7/2013 đến 5/2017 tại Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar đã phân tích 617 bệnh nhân nghi ngờ viêm não, sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử và huyết thanh học để chẩn đoán trên 70 tác nhân gây bệnh.

Kết quả cho thấy tuổi trung bình bệnh nhân là 6,3 tuổi (dao động từ 0 đến 76 tuổi), 98% có bất thường trên hình ảnh MRI, 57% được xác định căn nguyên gây bệnh, trong đó VNNB chiếm 33%, lao màng não chiếm 5%, và herpes simplex virus type 1 chiếm 4%. Tỷ lệ tử vong ghi nhận là 16% và có đến 49% bệnh nhân để lại di chứng thần kinh.

Vi rút VNNB được truyền sang người chủ yếu qua muỗi Culex. Những loài muỗi đóng vai trò truyền bệnh chính gồm Culex tritaeniorhynchus, Culex vishnui và Culex gelidus. Đây là những loài muỗi đồng ruộng, sinh sản mạnh trong môi trường ruộng lúa nước.

Chúng trở thành muỗi mang vi rút sau khi hút máu từ vật chủ mang mầm bệnh (như lợn hoặc chim). Muỗi hút máu vào lúc chập tối, thường đốt trâu bò và các vật nuôi nhưng cũng có thể đốt người. Sau khi bị nhiễm, muỗi có thể mang vi rút suốt đời và truyền qua trứng cho thế hệ sau.

Muỗi có thể bay xa từ 1 đến 3 km, trú đậu ở độ cao tới 13-15 mét, phát triển mạnh trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, đặc biệt ở mức nhiệt 27-32°C, và dừng phát triển khi dưới 20°C. Chúng ưa hút máu nhiều loài động vật, nhất là trâu bò và lợn, những vật chủ đóng vai trò quan trọng trong chu kỳ lan truyền vi rút.

Viêm não Nhật Bản gây gánh nặng bệnh tật đáng kể với tỷ lệ di chứng cao, bao gồm suy yếu thần kinh, vận động, rối loạn tâm thần, co giật, động kinh và suy giảm trí tuệ, ảnh hưởng nặng nề tới chất lượng cuộc sống bệnh nhân cũng như gây tổn thất lớn về kinh tế - xã hội.

Tại Việt Nam, viêm não Nhật Bản được ghi nhận lần đầu vào năm 1952 trên một lính Pháp, và năm 1953 đã có 98 ca bệnh. Đến năm 1959, các ca viêm não mùa hè được xác định chẩn đoán huyết thanh học, và năm 1964, vi rút viêm não Nhật Bản lần đầu được phân lập thành công (chủng HN-60) tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.

Các ổ dịch chủ yếu xuất hiện ở vùng đồng bằng và trung du miền Bắc, những nơi có điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển.

Trước khi vắc-xin được đưa vào sử dụng rộng rãi, số ca mắc hàng năm dao động từ 2.000-3.000, và đạt mức cao nhất là 4.935 ca vào năm 1985. Đến năm 1995, VNNB chiếm tới 61% tổng số trường hợp viêm não, vi rút tại Việt Nam.

Phân tích dữ liệu dịch tễ từ Hà Nội trong giai đoạn 2014-2022 cho thấy, các ca bệnh tăng mạnh trong các tháng 5-9 hằng năm, mùa cao điểm của VNNB tại miền Bắc, trùng với mùa hè và giai đoạn canh tác lúa nước.

Bệnh có tính mùa rõ rệt ở miền Bắc nhưng xuất hiện rải rác quanh năm tại miền Nam. Dù đã triển khai tiêm chủng, vẫn ghi nhận các ca bệnh do không tiêm đủ liều, không tiêm nhắc, hoặc do hệ miễn dịch yếu ở nhóm trẻ nhỏ.

Phân tích cho thấy một số ca mắc xảy ra ở những người đã được tiêm chủng, đặc biệt trong bối cảnh có vùng lõm về tỷ lệ tiêm hoặc thiếu mũi nhắc.

Từ năm 1997, chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia bắt đầu triển khai tiêm vắc-xin VNNB tại 12 tỉnh thành có nguy cơ cao, và mở rộng dần theo thời gian, năm 2005 đã triển khai tại 308 huyện thuộc 51 tỉnh; đến năm 2013 là 580 huyện thuộc 60 tỉnh; và từ năm 2014, chương trình được thực hiện trên toàn quốc.

Loại vắc-xin được sử dụng là MBDV, áp dụng cho trẻ từ 1-5 tuổi với phác đồ 3 mũi: Mũi đầu tiên khi trẻ tròn 1 tuổi, mũi thứ hai sau đó 1-2 tuần, mũi thứ ba sau mũi 2 một năm. Sau đó, tiêm nhắc lại mỗi 3-4 năm cho đến khi trẻ đủ 15 tuổi.

Tỷ lệ tiêm phòng VNNB hiện được duy trì ở mức cao trên 85% mỗi năm. Mỗi năm, Việt Nam sử dụng từ 4-5 triệu liều vắc-xin cho chương trình tiêm chủng mở rộng. Đồng thời, ngành Y tế cũng tiến hành rà soát và đề xuất tiêm bổ sung cho nhóm trẻ từ 5-9 tuổi sống ở vùng nguy cơ cao.

Báo cáo chương trình tiêm chủng mở rộng các năm 2019 và 2022 đều khẳng định hiệu quả rõ rệt của tiêm chủng.

Tuy nhiên, để hướng tới loại trừ hoàn toàn bệnh, cần triển khai các chiến lược dự phòng như sử dụng vắc-xin thế hệ mới an toàn và hiệu quả hơn, rà soát các vùng lõm về tiêm chủng, tổ chức tiêm vét, tiêm bổ sung tại trường học, và tăng cường giám sát dịch tễ trọng điểm.

Viêm não Nhật Bản là bệnh lý nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong và di chứng cao, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc-xin.

Nhờ có chương trình tiêm chủng mở rộng, số ca mắc đã giảm mạnh từ 2.000-4.000 ca mỗi năm trong thập niên 1990 xuống còn khoảng 100-200 ca trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, xu hướng ghi nhận ca mắc ở trẻ dưới 1 tuổi và người trên 15 tuổi, cùng với các ca bệnh đã tiêm nhưng không đủ liều, cho thấy cần tiếp tục chú trọng tiêm nhắc sau liều thứ ba để bảo vệ bền vững hơn.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư