Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 23 tháng 11 năm 2024,
Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển
D.Ngân - 20/03/2024 16:42
 
Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, "đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển".

Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị quyết 21 cho thấy, những thách thức đặt ra đối với công tác dân số và phát triển vẫn còn phức tạp, như: Mất cân bằng giới tính khi sinh, mức sinh thấp, di cư,…

Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, "đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển".

Tại một hội nghị về công tác dân số gần đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà yêu cầu thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia Dân số và phát triển, đại diện bộ, ngành, địa phương cần tập trung thảo luận giải pháp, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý và cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động khi nội hàm chính sách dân số đã chuyển từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển;

Đồng thời tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tính cấp bách của công tác dân số đối với sự phát triển bền vững của đất nước; chuẩn bị những giải pháp thích ứng với thời kỳ dân số già hoá… Từ đó, xác định một số nhiệm vụ trọng tâm giao cho các bộ, ngành tập trung triển khai trong năm 2024.

Theo báo cáo của Bộ Y tế, quy mô dân số năm 2023 của Việt Nam khoảng 100,3 triệu dân, tốc độ tăng dân số 0,84%.

Số lượng và tỷ trọng dân số đang trong độ tuổi lao động chiếm gần 70% dân số, trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Chất lượng dân số được cải thiện nhiều mặt về thể chất, tuổi thọ, trình độ văn hoá, sức khoẻ sinh sản; giảm tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống…

Tuy nhiên, quy mô dân số lớn cũng gây áp lực đối với hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội, môi trường đô thị, nông thôn.

Đáng chú ý, mô hình dân số Việt Nam đang có nghịch lý mức sinh thay thế ở miền núi cao hơn đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị, nhóm đối tượng nghèo nhất thường sinh nhiều con hơn so với các nhóm còn lại. Tỷ số giới tính khi sinh vẫn cao so với mức cân bằng tự nhiên (104-106 bé trai trên 100 bé gái).

Việt Nam là nước có tốc độ già hoá dân số nhanh (dự kiến bước vào thời kỳ già hoá dân số vào năm 2038) sẽ tác động sâu sắc tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, như hệ thống chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã hội, việc làm.

Bên cạnh đó, việc hoàn thiện, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số. Mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân.

Nguồn lực chưa đáp ứng đủ yêu cầu phát triển các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản. Tổ chức, bộ máy làm công tác dân số thiếu thống nhất, liên tục thay đổi, biến động. Ngân sách Nhà nước chưa phân bổ riêng cho công tác dân số, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội.

Từ nghiên cứu mô hình dân số ở các nước phát triển, như Nhật Bản, Hàn Quốc, các chuyên gia, nhà khoa học đã chỉ ra một số vấn đề ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng dân số: Chi phí sinh hoạt, nuôi con tăng quá cao so với thu nhập của người lao động; thời gian làm việc quá dài; phụ nữ vừa phải làm việc nhà, vừa làm việc xã hội; môi trường không thân thiện với trẻ em…

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, công tác dân số và phát triển rất quan trọng khi tài nguyên con người sẽ thay thế tài nguyên thiên nhiên, và nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực phát triển đất nước bền vững.

Thành công của chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình trước đây cho thấy phải triển khai đồng bộ, quyết liệt, toàn diện, thống nhất.

Những thách thức lớn đối với công tác dân số và phát triển hiện nay cho thấy sự suy giảm về nhận thức, hiểu biết một cách sâu sắc về tâm quan trọng của công tác dân số và phát triển; thiếu chỉ đạo thống nhất, nhất quán từ Trung ương đến địa phương; nơi cần tăng mức sinh thì lại giảm và ngược lại…

Theo Phó Thủ tướng, giải quyết các thách thức của công tác dân số và phát triển cần có cách tiếp cận bao trùm chính sách về kinh tế, chính trị, an sinh xã hội, giáo dục… hướng đến sự hài hoà, hợp lý của quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số giữa các vùng, miền.

Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu tiếp thu, bổ sung vào nội dung sơ kết Nghị quyết 21-NQ/TW, đồng thời tham khảo kinh nghiệm thành công, thất bại trên thế giới; đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt nhận thức chính xác, đúng đắn, đầy đủ nội hàm, tầm quan trọng của chính sách dân số và phát triển;

Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực dân số và phát triển; tham mưu phương án tổ chức bộ máy trong lĩnh vực dân số đồng bộ, thống nhất, kèm theo phương án bố trí kinh phí, nhân sự hoạt động; xây dựng cơ sở dữ liệu, công cụ thu thập, thống kê các chỉ tiêu dân số; làm rõ những nội dung trong hoạt động quản lý nhà nước về dân số, nhất là chế độ kiểm tra, báo cáo…

Được biết, năm 2019, số lượng người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên của nước ta là 11,41 triệu người (chiếm 11,86% tổng dân số); năm 2021 có 12,5 triệu người cao tuổi (chiếm 12,8%) và ngày càng tăng nhanh.

Ước tính vào năm 2038, Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn dân số già với tỷ lệ người cao tuổi chiếm trên 20% tổng dân số. Già hóa dân số tác động sâu sắc tới mọi khía cạnh của cá nhân, cộng đồng, quốc gia.

Điều này đòi hỏi hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cần có sự điều chỉnh, thích nghi để đáp ứng với nhu cầu chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.

Người cao tuổi trong xã hội vẫn là một nguồn lực rất quan trọng và không thể thiếu. Họ là những người có trình độ, kiến thức, kĩ năng chuyên môn và bề dày kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để người cao tuổi có cuộc sống tích cực, truyền đạt những kinh nghiệm sống quý báu và là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho con cháu.

Tuổi cao được đặc trưng bởi sự xuất hiện của các tình trạng sức khỏe phức tạp có xu hướng xuất hiện vào những năm sau của cuộc đời.

Đó là các hội chứng lão khoa như hội chứng dễ bị tổn thương, sa sút trí tuệ, sảng, tiểu không tự chủ, sarcopenia, rối loạn dáng đi và ngã, suy giảm hoạt động chức năng…

Thêm vào đó, tình trạng đa bệnh lý, giảm sức đề kháng với bệnh tật, khả năng hồi phục sức khỏe kém đòi hỏi người cao tuổi phải được điều trị và chăm sóc một cách đặc biệt. Mặt khác, chi phí y tế và gánh nặng chăm sóc cho người cao tuổi cũng cao gấp nhiều lần so với người trẻ tuổi.

Tuy nhiên, khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế, như thiếu các cơ sở y tế (bệnh viện, trung tâm y tế, trạm y tế…) và nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi (bác sĩ, điều dưỡng lão khoa, người chăm sóc…).

Hệ thống nhà dưỡng lão, trung tâm bảo trợ xã hội còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chính vì vậy, việc tăng cường chuyên môn cũng như cơ sở vật chất và nhân lực trong điều trị và chăm sóc người cao tuổi là một nhu cầu bức thiết và cần được quan tâm đến.

Vậy, làm thế nào để không ngừng nâng cao năng lực chẩn đoán, quản lý và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đồng thời kêu gọi toàn xã hội cùng chung tay để tất cả người cao tuổi Việt Nam được sống vui, sống khỏe là câu hỏi đặt ra với toàn xã hội nói chung và ngành Y tế nói riêng.

Giám đốc Bệnh viện Lão khoa Trung ương, Chủ tịch Hội Lão khoa Việt Nam cho hay, hiện khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế, như thiếu các cơ sở y tế (bệnh viện, trung tâm y tế, trạm y tế…) và nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi (bác sĩ, điều dưỡng lão khoa, người chăm sóc…).

Bên cạnh đó, hệ thống nhà dưỡng lão, trung tâm bảo trợ xã hội còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chính vì vậy, việc tăng cường chuyên môn cũng như cơ sở vật chất và nhân lực trong điều trị và chăm sóc người cao tuổi là một nhu cầu bức thiết và cần được quan tâm đến.

Chi phí y tế và gánh nặng chăm sóc cho người cao tuổi cao gấp 7-10 lần người trẻ. Người cao tuổi sử dụng đến 50% tổng lượng thuốc. Xu hướng tử vong trong các cơ sở y tế tăng lên cũng làm gia tăng chi phí y tế.

Tuy nhiên, theo PGS-TS.Nguyễn Trung Anh, những chi phí này sẽ giảm bớt nếu có những cách tiếp cận hợp lý. Và dịch vụ chăm sóc người già là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp những năm tới.

Thách thức của già hoá dân số đòi hỏi hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cần có sự điều chỉnh, thích nghi để đáp ứng với nhu cầu chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.

Do đó Giám đốc Bệnh viện Lão khoa Trung ương đề xuất các giải pháp chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi một cách đồng bộ như thành lập Khoa Lão tại các bệnh viện với quy mô khoảng 10% giường kế hoạch; tổ chức phòng khám lão khoa tại khoa khám bệnh;

Nâng cao năng lực kiểm soát các bệnh không lây nhiễm ở người cao tuổi, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khoẻ, hướng dẫn người cao tuổi kỹ năng phòng bệnh, chữa bệnh và tự chăm sóc sức khoẻ như ăn uống hợp lý, tăng cường vận động, không hút thuốc lá…

Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh tim mạch, tiểu đường, bệnh Alzheimer và các bệnh mạn tính khác;

Lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khoẻ cho người cao tuổi, phát hiện và dự phòng các yếu tố nguy cơ gây tàn phế ở người cao tuổi, phát triển các mô hình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

Đồng thời theo kiến nghị của PGS-TS.Nguyễn Trung Anh, cần sớm thành lập bộ môn lão khoa tại các trường đại học y: tăng cường đào tạo chuyên ngành lão khoa cho bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên y tế khác; đào tạo người chăm sóc người cao tuổi; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực lão khoa...

Cũng theo đề xuất của người đứng đầu Bệnh viện Lão khoa Trung ương, cần phát triển hệ thống chăm sóc dài ngày cho người cao tuổi thông qua phát triển hệ thống nhà dưỡng lão, đặc biệt là nhà dưỡng lão có chăm sóc y tế (ví dụ cho bệnh nhân Alzheimer); khu chung cư dành cho người già; từng bước phát triển các trung tâm ban ngày (cung cấp các dịch vụ xã hội cho người cao tuổi)

Ngoài ra, cần đa dạng hóa các dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi sống tại nhà như dọn nhà, giặt giũ, đi chợ, cung cấp bữa ăn, điều dưỡng đến nhà chăm sóc, phục hồi chức năng, lao động trị liệu, dịch vụ trông người già theo giờ, tư vấn sức khoẻ, cung cấp dụng cụ trợ giúp, các câu lạc bộ vui chơi, giải trí…); phát triển mạng lưới y học gia đình, nhân viên xã hội.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư