Thứ Tư, Ngày 13 tháng 08 năm 2025,
Đề xuất bỏ thủ tục cấp phép đầu tư ra nước ngoài, thay bằng phương thức khác
Khánh Linh - 13/08/2025 20:37
 
Trong 2 phương án đang được bàn tới liên quan đến quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Bộ Tài chính đề xuất chọn phương án bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

Bãi bỏ hay đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài 

Hai phương án đang được bàn thảo gồm một là, bãi bỏ thủ tục đầu tư ra nước ngoài, chuyển sang phương thức quản lý ngoại hối và hai là, đơn giản hoá thủ tục đầu tư ra nước ngoài. 

Tính đến hết tháng 6/2025, Việt Nam có 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư hơn 23 tỷ USD

Trong phương án 1, các thủ tục bãi bỏ cụ thể là thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội và của Thủ tướng Chính phủ; thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính.

Thay vào đó, nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển tiền ra nước ngoài.

Trong phương án 2, sẽ bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài (thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ). Diện dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài được thu hẹp, theo hướng chỉ áp dụng đối với dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng (khoảng 760.000 USD) trở lên, đối với các dự án có quy mô dưới 20 tỷ đồng thì chỉ cần thực hiện việc đăng ký giao dịch ngoại hối với Ngân hàng Nhà nước để chuyển tiền ra nước ngoài.

Ngoài ra, cũng có phương án 3 là giữ nguyên quy định.

Trong Dự thảo Tờ trình Chính sách của Luật Đầu tư (thay thế), Bộ Tài chính lựa chọn phương án 1, với các lý do sau.

Thứ nhất, việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ đúng thực chất hơn. Đặc biệt khi nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư đã có tài liệu chấp thuận đầu tư của nước ngoài (giấy phép đầu tư/giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp/hợp đồng góp vốn/mua cổ phần vào công ty nước ngoài…). Khi đó, hoạt động đầu tư đã “chắc chắn” hơn và “xác thực” hơn.

Phương án này sẽ cắt giảm rất nhiều thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy và gia tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận nhanh hơn cơ hội đầu tư ở nước ngoài, góp phần mở rộng thị trường, phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, đóng góp cho nền kinh tế đất nước nhất là trong điều kiện phát triển nhanh chóng của công nghệ như hiện nay.

Đây cũng là cách thức nâng cao công tác quản lý nhà nước thông qua việc quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước sẽ nhanh chóng thống kê và kiểm tra được tình hình thực hiện vốn đầu tư và tình hình chuyển tiền về nước thông qua hệ thống ngân hàng để có đánh giá và điều chỉnh kịp thời khi có ảnh hưởng đối với cán cân thanh toán/dự trữ ngoại hối; hệ thống ngân hàng có công cụ xử lý kịp thời đối với các trường hợp không tuân thủ quy định về chế độ báo cáo (như tạm dừng cho phép chuyển tiền, phong tỏa tài khoản vốn đầu tư trong trường hợp khẩn cấp...).

Hiện nay, Luật Đầu tư đang quy định phạm vi quản lý của cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài khá rộng, bao quát toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài (mục tiêu, quy mô, địa điểm, phạm vi hoạt động, tổng vốn đầu tư…).

Quy định này không rõ ràng về mục tiêu quản lý nhà nước (quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài hay toàn bộ hoạt động của dự án), đồng thời cũng không khả thi bởi các hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.

Bộ Tài chính phân tích, Ngân hàng Nhà nước hiện là cơ quan quản lý về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Do đó, việc Ngân hàng Nhà nước quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là phù hợp để nắm bắt tổng thể nguồn vốn của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

Ngoài ra, việc Ngân hàng Nhà nước xác nhận các hoạt động chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư cũng sẽ hỗ trợ công tác phòng chống rửa tiền được thuận lợi và hiệu quả hơn.

Những bất cập trong thủ tục đầu tư ra nước ngoài

Thực tế, bên cạnh những mặt tích cực, các thủ tục đầu tư ra nước ngoài đã phát sinh một số bất cập trong quá trình quản lý của cơ quan nhà nước cũng như thực hiện của nhà đầu tư.

Trong đó, điểm chính là khi nhà đầu tư sử dụng vốn tư nhân của mình để thực hiện đầu tư ra nước ngoài và tuân thủ các quy định pháp luật tại nước sở tại.

Tuy nhiên, cơ quan nhà nước Việt Nam lại phê duyệt nhiều nội dung về dự án về “hình thức, quy mô, địa điểm, tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn” là chưa thật sự hợp lý, ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư; chưa phân định rõ nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và những nội dung thuộc thẩm quyền điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.

Về bản chất, mục đích cuối cùng của nhà đầu tư là được chuyển tiền ra nước ngoài (giao dịch ngoại hối) để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài.

Bên cạnh đó, các thủ tục đầu tư ra nước ngoài này khó ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư sau khi nhà đầu tư đã thực hiện xong việc chuyển tiền ra nước ngoài. Ngoài ra, việc tiếp tục duy trì cơ chế quản lý đầu tư ra nước ngoài như hiện tại không còn phù hợp vì làm cản trở, hạn chế việc nắm bắt cơ hội đầu tư ở nước ngoài của nhà đầu tư.

Nhiều nước trên thế giới chỉ thực hiện chế độ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và có chính sách cấm hoặc hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài trong một số trường hợp nhất định để đảm bảo cân đối vĩ mô cũng như tính hợp pháp của nguồn tiền, mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài bởi những hoạt động này được thực hiện tại nước tiếp nhận đầu tư và phải tuân thủ pháp luật của nước đó.

Hiện nay chỉ còn Việt Nam, Lào, Indonesia còn cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Trung Quốc có cấp giấy này, chỉ quản lý các dự án lớn và một số lĩnh vực. Các quốc gia khác đã chuyển sang cơ chế nhà đầu tư kê khai, đăng ký vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài với hệ thống ngân hàng khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài.

Tính đến hết tháng 6/2025, Việt Nam có 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư hơn 23 tỷ USD.
Trong đó, phần là dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng, chiếm tới 67,4% tổng số dự án, nhưng có tỷ lệ nhỏ về vốn (khoảng 1,7% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài).
Số dự án có vốn đầu tư trên 20 tỷ đồng là khoảng 28% tổng số dự án, nhưng chiếm phần đa về vốn (khoảng 98,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài).
Số còn lại là các dự án nhỏ dưới 1,2 tỷ đồng (tương đương 50.000 USD).
Những dự án này đều thuộc diện chấp thuận chủ trương của Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Ngoài ra, đến nay chưa ghi nhận có dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội.
Quy định mới về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 132/2024/NĐ-CP ngày 15/10/2024 quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí.
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư