
-
Sở Y tế Bắc Ninh kiểm tra đột xuất các cơ sở kinh doanh thuốc, thực phẩm chức năng
-
Thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có đường: Lợi ích lớn từ một thay đổi nhỏ
-
Việt Nam cần tăng thuế thuốc lá lên 75% giá bán lẻ
-
Tin mới y tế ngày 3/6: Chữa bệnh bằng niềm tin, trả giá bằng sức khỏe
-
Bộ Y tế đề xuất phạt nặng hành vi chọn giới tính khi sinh -
Cần mở rộng thanh toán bảo hiểm y tế cho điều trị vô sinh, hiếm muộn
Cần thiết bổ sung vi chất dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe cộng đồng
Hiện nay, trên toàn thế giới có tới 56% trẻ em mẫu giáo (tương đương 372 triệu trẻ) và 69% phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh sản (khoảng 1,2 tỷ người) bị thiếu ít nhất một trong ba vi chất quan trọng: sắt, kẽm, hoặc vitamin A. Tình trạng thiếu vi chất, còn được gọi là "nạn đói tiềm ẩn", để lại hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của trẻ em.
![]() |
Tình trạng thiếu vi chất, còn được gọi là "nạn đói tiềm ẩn", để lại hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của trẻ em. |
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thiếu vitamin A gây ra quáng gà và bệnh khô mắt cho khoảng 250.000 đến 500.000 trẻ em mỗi năm, làm tăng nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng như sởi hoặc tiêu chảy.
Tại Việt Nam, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em từ 6 - 59 tháng tuổi là 8,9%, trong khi 16,7% bà mẹ có hàm lượng vitamin A trong sữa thấp. Tình trạng thiếu kẽm cũng ở mức báo động: 53,3% trẻ từ 6 - 59 tháng tuổi, 44,3% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và 63,0% phụ nữ có thai bị thiếu kẽm.
Thiếu máu dinh dưỡng là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều nhất đến phụ nữ có thai (25,4%), trẻ em dưới 5 tuổi (18,1%) và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (16,2%).
Việc thiếu vi chất ở phụ nữ mang thai và trong độ tuổi sinh sản làm tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ, sinh con nhẹ cân và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe thế hệ tương lai. Đặc biệt, Việt Nam đang phải đối mặt với “gánh nặng kép” về dinh dưỡng: cùng lúc tồn tại tình trạng suy dinh dưỡng, thừa cân béo phì và thiếu vi chất.
Theo số liệu giám sát năm 2024 của Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế), tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi là 18,1%, mức trung bình có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO.
Tuy nhiên, có sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng: Trung du và miền núi phía Bắc (23,8%) và Tây Nguyên (27,3%) vẫn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi là 10,4%.
Theo TS.BS Nguyễn Hồng Trường, Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng, nguyên nhân sâu xa của tình trạng thiếu vi chất là do khẩu phần ăn mất cân đối, chưa đa dạng thực phẩm, thiếu kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng.
Nhiều năm qua, Viện Dinh dưỡng đã phối hợp cùng các địa phương triển khai Chiến dịch bổ sung vitamin A miễn phí vào Ngày Vi chất dinh dưỡng (ngày 1 - 2/6 hàng năm), góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi bệnh mù lòa do thiếu vitamin A và cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em.
TS.BS Nguyễn Hồng Trường nhấn mạnh, việc bổ sung vitamin A là rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ, nhất là với nhóm từ 6 tháng đến dưới 5 tuổi, đối tượng có nguy cơ thiếu vitamin A cao.
Trước sự gia tăng của các bệnh lây nhiễm, phạm vi đối tượng được bổ sung vitamin A miễn phí đã được mở rộng, bao gồm cả trẻ em và người lớn mắc sởi, suy dinh dưỡng nặng, viêm đường hô hấp cấp, tiêu chảy kéo dài, theo phác đồ của Bộ Y tế. Ngoài vitamin A, cần đặc biệt quan tâm tới tình trạng thiếu sắt và kẽm, những vấn đề sức khỏe cộng đồng nổi bật tại Việt Nam.
Các chương trình bổ sung vi chất nằm trong các Chương trình Mục tiêu quốc gia được xem là giải pháp hiệu quả, đặc biệt ở vùng khó khăn. Giai đoạn 2023 - 2025, hơn 245.000 trẻ dưới 5 tuổi, gần 490.000 trẻ từ 5 - 16 tuổi và khoảng 170.000 phụ nữ có thai sẽ được cung cấp đa vi chất dinh dưỡng miễn phí trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Để phòng chống thiếu vi chất một cách bền vững, cần có các giải pháp đồng bộ: từ bổ sung liều cao cho nhóm nguy cơ cao, đến tăng cường vi chất vào thực phẩm thiết yếu như muối, dầu ăn, bột mì...
Đồng thời, cần đẩy mạnh giáo dục và thay đổi hành vi dinh dưỡng trong cộng đồng. Truyền thông và giáo dục dinh dưỡng chính là cầu nối quan trọng để đưa kiến thức khoa học đến với người dân.
Ngày Vi chất dinh dưỡng năm nay tiếp tục được tổ chức với mục tiêu nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về phòng chống thiếu vi chất. Dự kiến sẽ có hơn 6 triệu trẻ em từ 6 tháng đến dưới 5 tuổi được bổ sung vitamin A liều cao trong đợt này.
Thủy đậu có thể gây biến chứng nặng ngay cả ở người trẻ, khỏe mạnh
Trong bối cảnh thời tiết chuyển mùa, độ ẩm cao và dịch bệnh có xu hướng gia tăng, các cơ sở y tế trên cả nước ghi nhận sự gia tăng đáng kể số ca mắc bệnh thủy đậu.
Đáng lo ngại, không chỉ trẻ em mà cả người lớn, kể cả những người trẻ tuổi có thể trạng khỏe mạnh, cũng đang trở thành nạn nhân của những biến chứng nặng do căn bệnh tưởng chừng lành tính này gây ra.
Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Varicella-Zoster gây ra, có khả năng lây lan nhanh chóng qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với dịch từ các nốt ban nước.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến nhất ở trẻ em trong độ tuổi đi học. Ở Việt Nam, thủy đậu xuất hiện quanh năm, tuy nhiên, dịch thường bùng phát mạnh vào thời điểm từ tháng 2 đến tháng 6 hàng năm, đặc biệt trong các tháng 3 và 4 - khi thời tiết giao mùa, độ ẩm cao, tạo điều kiện lý tưởng cho virus phát tán trong cộng đồng.
Nhiều địa phương trong cả nước đã ghi nhận sự gia tăng số ca mắc. Tại Trung tâm Y tế huyện Phù Ninh (Phú Thọ), số bệnh nhân thủy đậu tăng nhanh, bao gồm cả trẻ em, người lớn và phụ nữ mang thai.
Các biến chứng thường gặp gồm nhiễm trùng da, viêm phổi, viêm não, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm độc. Riêng ở phụ nữ mang thai, việc mắc thủy đậu tiềm ẩn nguy cơ sảy thai, sinh non hoặc sinh con dị tật bẩm sinh.
Tại Hải Dương, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cho biết đã phát hiện chùm ca bệnh tại Trường Tiểu học xã An Phượng, huyện Thanh Hà với 13 học sinh mắc bệnh, tất cả đều chưa được tiêm vắc-xin phòng thủy đậu. Ngay sau đó, các biện pháp khoanh vùng, kiểm soát lây lan đã được triển khai.
Mặc dù thủy đậu từ lâu vẫn được xem là một bệnh “lành tính” ở trẻ em, nhưng trên thực tế, các cơ sở y tế thời gian qua đã ghi nhận không ít ca bệnh diễn tiến nặng, thậm chí tử vong do biến chứng.
Tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, hai nam giới trong độ tuổi lao động, không có bệnh nền, vẫn rơi vào tình trạng nguy kịch do thủy đậu diễn tiến nhanh. Trường hợp tương tự cũng xảy ra tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Nghệ An, nơi hai trẻ sơ sinh được nhập viện trong tình trạng nặng, một bé 22 ngày tuổi bị suy hô hấp do biến chứng thủy đậu, và một bé mắc bệnh ngay sau sinh đã được cứu chữa kịp thời.
Theo thống kê của Bộ Y tế, từ đầu năm 2025 đến nay, số ca mắc thủy đậu tiếp tục có xu hướng tăng tại nhiều địa phương, đặc biệt ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, nơi có thời tiết nồm ẩm, thuận lợi cho virus Varicella-Zoster phát triển và lây lan mạnh.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính, mỗi năm toàn cầu có khoảng 140 triệu người mắc thủy đậu, với 4,2 triệu ca biến chứng nghiêm trọng cần nhập viện và khoảng 4.200 trường hợp tử vong.
Mặc dù phần lớn người khỏe mạnh có thể hồi phục nhanh khi mắc thủy đậu, song bệnh lại đặc biệt nguy hiểm đối với những đối tượng có nguy cơ cao như người lớn tuổi, phụ nữ mang thai, người suy giảm miễn dịch hoặc mắc các bệnh mạn tính.
Ở trẻ em, các biến chứng thần kinh và hô hấp không phải hiếm gặp. Đặc biệt, với những trẻ bị suy giảm miễn dịch hoặc mắc bệnh bạch cầu, quá trình hồi phục sau khi mắc thủy đậu có thể kéo dài gấp ba lần bình thường, đồng thời đi kèm nguy cơ biến chứng nội tạng và tử vong cao.
Ngoài ra, thủy đậu còn có thể để lại “dư chấn” lâu dài dưới dạng zona thần kinh. Đây là bệnh lý nguy hiểm thường xảy ra khi virus Varicella-Zoster “thức tỉnh” sau thời gian dài tiềm ẩn trong hạch rễ thần kinh.
Zona thần kinh thường xuất hiện khi cơ thể rơi vào trạng thái suy yếu như tuổi già, căng thẳng kéo dài, mắc bệnh mạn tính hoặc đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch. Bệnh có thể gây đau dây thần kinh kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
BSCKI Nguyễn Tấn Sang, Khoa Thần kinh, Trung tâm Khoa học Thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP. HCM cho biết, virus Varicella-Zoster gây ra cả thủy đậu và zona thần kinh. Sau khi khỏi thủy đậu, virus không bị loại bỏ mà tồn tại ở trạng thái “ngủ đông” trong cơ thể. Khi sức đề kháng suy yếu, nó có thể tái hoạt động và gây ra zona với các biểu hiện đau rát dữ dội dọc theo đường đi của dây thần kinh.
Thủy đậu có thể diễn biến nhanh chóng và nghiêm trọng, đòi hỏi người dân không được chủ quan. Bác sỹ Quý (Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương) khuyến cáo, khi người bệnh có dấu hiệu sốt cao kéo dài, ban thủy đậu mọc dày, kèm theo khó thở, lơ mơ, nôn nhiều… cần được đưa đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt. Biến chứng có thể xuất hiện trong vòng vài giờ, không nên chờ bệnh tự hồi phục.
Những đối tượng có nguy cơ cao cần đặc biệt chú ý bao gồm: trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, người cao tuổi, phụ nữ mang thai, người mắc bệnh lý nền như tiểu đường, xơ gan, ung thư, hoặc người suy giảm miễn dịch. Với phụ nữ mang thai, nguy cơ sảy thai, dị tật bẩm sinh hoặc nhiễm trùng sơ sinh là rất lớn nếu mắc thủy đậu trong thai kỳ.
Hiện nay, tiêm vắc-xin là biện pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa thủy đậu. Trẻ em từ 12 tháng tuổi trở lên có thể tiêm mũi đầu tiên và tiêm nhắc lại sau 4-6 tuần. Người lớn chưa từng mắc bệnh hoặc chưa tiêm phòng cũng nên chủ động tiêm vắc-xin, nhất là khi đang sống hoặc làm việc trong khu vực có nguy cơ cao.
Bên cạnh tiêm chủng, người dân cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng bệnh khác như: giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên, hạn chế tiếp xúc gần với người nghi mắc bệnh. Khi trong gia đình có người mắc thủy đậu, cần cách ly đúng cách để tránh lây lan sang người khác, đặc biệt là trẻ em và người có hệ miễn dịch yếu.
Trong bối cảnh dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc chủ động phòng ngừa bằng tiêm vắc-xin và nâng cao nhận thức về các biến chứng nguy hiểm của thủy đậu là điều hết sức cần thiết để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
Thoái hóa khớp - Căn bệnh hàng đầu gây tàn tật trong các bệnh lý cơ xương khớp
Thoái hóa khớp là một trong những bệnh lý cơ xương khớp phổ biến nhất, được xem là nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Tại Việt Nam, thoái hóa khớp chiếm hơn 10% các bệnh xương khớp và là bệnh lý cơ xương khớp phổ biến thứ hai mà các bác sĩ đa khoa thường gặp. Tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, đặc biệt ở người cao tuổi, trở thành gánh nặng kinh tế - xã hội đối với cả cá nhân và cộng đồng.
Thông tin này được đưa ra tại Hội nghị khoa học thường niên Hội Thấp khớp học Hà Nội năm 2025, do Hội Thấp khớp học Hà Nội phối hợp với Bệnh viện Đa khoa Đức Giang tổ chức ngày 31/5.
Hội nghị quy tụ nhiều chuyên gia đầu ngành, bác sĩ và nhà nghiên cứu trong lĩnh vực cơ xương khớp, nhằm cập nhật các xu hướng điều trị mới, chia sẻ kinh nghiệm lâm sàng và thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý cơ xương khớp tại Việt Nam.
Hội nghị năm nay diễn ra với bốn phiên báo cáo chuyên sâu và một hội thảo vệ tinh, xoay quanh các chủ đề như: cập nhật khuyến cáo điều trị viêm cột sống theo ASAS-EULAR, ứng dụng y học tái tạo trong điều trị thoái hóa khớp gối, thách thức và giải pháp trong điều trị loãng xương tại Việt Nam, vai trò phẫu thuật và chẩn đoán hình ảnh trong bệnh cơ xương khớp.
TS. Nguyễn Văn Thường, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đức Giang nhận định, các bệnh lý cơ xương khớp đang trở thành mối lo ngại lớn khi tuổi thọ dân số ngày càng tăng.
Đặc biệt, thoái hóa khớp mà điển hình là thoái hóa khớp gối, không chỉ ảnh hưởng đến chức năng vận động mà còn gây suy giảm nghiêm trọng khả năng lao động và sinh hoạt hàng ngày của người bệnh. Ông nhấn mạnh, cần có các giải pháp đồng bộ và hiện đại nhằm làm giảm gánh nặng của bệnh trong tương lai.
GS-TS. Nguyễn Vĩnh Ngọc, Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Hà Nội cho biết, ở Mỹ có tới 80% người trên 55 tuổi bị thoái hóa khớp, còn tại Pháp, bệnh này chiếm khoảng 28% trong tổng số các bệnh xương khớp.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc thoái hóa khớp chiếm hơn 10% trong số các bệnh lý cơ xương khớp. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật ở người lớn tuổi và liên quan đến gánh nặng kinh tế đáng kể, có thể chiếm tới 2,5% GDP tại các quốc gia phát triển.
Thoái hóa khớp là hậu quả của quá trình mất cân bằng giữa sự tổng hợp và hủy hoại của mô sụn và xương dưới sụn. Trong đó, thoái hóa khớp gối là dạng phổ biến nhất, gây ảnh hưởng lớn đến chức năng vận động, khả năng lao động và chất lượng cuộc sống.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, trong số các bệnh lý khớp, có khoảng 20% là thoái hóa khớp gối. Khoảng 1/5 bệnh nhân sẽ bị đau kéo dài và suy giảm chức năng sau một năm kể từ khi khởi phát bệnh.
Tỷ lệ mắc bệnh tăng theo độ tuổi, đặc biệt sau 50 tuổi. Đây cũng là nguyên nhân chính gây tàn phế ở người trên 65 tuổi. Các triệu chứng thường gặp của thoái hóa khớp gồm đau âm ỉ hoặc dữ dội khi vận động, cứng khớp buổi sáng kéo dài dưới 30 phút, sưng khớp và hạn chế vận động. Nếu không được điều trị sớm và đúng cách, bệnh có thể dẫn đến mất khả năng vận động, thậm chí phải phẫu thuật thay khớp.
Hiện nay, các phương pháp điều trị thoái hóa khớp bao gồm điều trị nội khoa, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng và phẫu thuật khi cần thiết. Việc dùng thuốc có thể bao gồm thuốc chống viêm giảm đau trong các đợt cấp, thuốc chống thoái hóa khớp tác dụng chậm, tiêm corticosteroid nội khớp, bổ sung dịch khớp bằng acid hyaluronic, tiêm huyết tương giàu tiểu cầu (PRP), hoặc hút dịch khớp trong một số trường hợp có viêm.
Một xu hướng mới trong điều trị là y học tái tạo, nổi bật là liệu pháp tế bào gốc trung mô – được đánh giá có tiềm năng cải thiện triệu chứng, làm chậm tiến triển bệnh và tái tạo mô sụn. Các nghiên cứu gần đây cho thấy liệu pháp này có thể mang lại hiệu quả lâu dài, đặc biệt đối với những bệnh nhân thoái hóa khớp gối giai đoạn sớm đến trung bình.
Các chuyên gia cũng khuyến cáo, việc phòng ngừa thoái hóa khớp cần bắt đầu từ sớm, thông qua việc duy trì cân nặng hợp lý, tăng cường vận động, tránh các tư thế sai hoặc mang vác quá sức, và điều trị kịp thời các chấn thương khớp. Bên cạnh đó, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về bệnh lý cơ xương khớp là điều cần thiết nhằm phát hiện sớm và điều trị đúng hướng, giảm nguy cơ tàn phế và gánh nặng cho xã hội.
Thoái hóa khớp không còn là vấn đề riêng của người cao tuổi. Lối sống thiếu vận động, thừa cân, chấn thương thể thao và các yếu tố nghề nghiệp đang khiến bệnh lý này có xu hướng trẻ hóa. Do đó, cùng với các tiến bộ y học, người dân cần chủ động thay đổi lối sống để bảo vệ hệ vận động và nâng cao chất lượng cuộc sống.
-
Tin mới y tế ngày 3/6: Chữa bệnh bằng niềm tin, trả giá bằng sức khỏe -
Bộ Y tế đề xuất phạt nặng hành vi chọn giới tính khi sinh -
Cần mở rộng thanh toán bảo hiểm y tế cho điều trị vô sinh, hiếm muộn -
Tin mới y tế ngày 2/6: Cần thiết bổ sung vi chất dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe cộng đồng -
Phát hiện chất cấm trong viên nang giảm cân Hồng Hạc Phục Linh -
Tạm dừng lưu thông bột kem do Công ty Thái Sơn Bắc nhập khẩu vì vi phạm nhãn hàng hóa -
Tin mới y tế ngày 1/6: Bộ Y tế đề xuất nhiều điểm mới trong Dự thảo Luật Phòng bệnh
-
VSIP hợp tác với A New Home, Smartland, An Homes phân phối dự án Sun Casa Square
-
ThaiFex 2025: Thương hiệu sữa Việt khẳng định vị thế ở sân chơi châu lục
-
Công bố Top 50 Doanh nghiệp Đổi mới sáng tạo và Kinh doanh hiệu quả năm 2025
-
Gần 2.000 cư dân tham gia giải chạy thường niên Phú Đông Mini Marathon mùa 5
-
Home Show 2025 - Cơ hội mở rộng kênh phân phối cho doanh nghiệp gia dụng
-
Công ty cổ phần Cảng Sài Gòn - Hiệp Phước mời chào hợp tác đầu tư