Thứ Tư, Ngày 10 tháng 09 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 10/9: Báo động trẻ hóa bệnh thận mạn tại Việt Nam
D.Ngân - 10/09/2025 10:14
 
Tại Việt Nam, hiện có hơn 10 triệu người, tương đương khoảng 10% dân số đang chịu ảnh hưởng bởi bệnh thận mạn.

Báo động trẻ hóa bệnh thận mạn tại Việt Nam

Điều đáng lo ngại là có tới 90% người bệnh không nhận biết được tình trạng của mình cho đến khi bước vào giai đoạn muộn, khiến việc điều trị trở nên khó khăn và tốn kém.

Ảnh minh họa

Trong số khoảng 800.000 người đang cần điều trị thay thế thận do suy thận giai đoạn cuối, chỉ có khoảng 33.000 người được tiếp cận dịch vụ chạy thận, lọc máu hoặc ghép thận.

Tại Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch Mai là một trong những đơn vị tuyến đầu điều trị bệnh thận tại Việt Nam mỗi ngày tiếp nhận hàng chục bệnh nhân mới đến khám và điều trị.

Hiện trung tâm điều trị nội trú cho khoảng 160-180 bệnh nhân thận mỗi ngày, trong đó số lượng người trẻ tuổi dưới 30 ngày càng gia tăng. Đây là độ tuổi lao động chính của xã hội, nên xu hướng trẻ hóa bệnh thận mạn đang gây ra nhiều lo ngại về sức khỏe cộng đồng và gánh nặng kinh tế xã hội trong tương lai gần.

Theo TS.BS Nghiêm Trung Dũng, Giám đốc Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch Mai, số lượng người trẻ nhập viện điều trị vì bệnh thận mạn, đặc biệt là viêm cầu thận mạn, đang gia tăng nhanh chóng. Nhiều bệnh nhân trẻ khi đến viện đã ở trong giai đoạn cuối của bệnh thận, phải điều trị bằng các phương pháp thay thế như lọc máu hoặc ghép thận.

Ngoài nguyên nhân bệnh lý nền như viêm cầu thận, các yếu tố từ lối sống hiện đại, bao gồm chế độ ăn nhiều muối, chất đạm, thực phẩm chế biến sẵn, lười vận động, thức khuya, hút thuốc lá, sử dụng rượu bia và chất kích thích, cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình tổn thương thận ở người trẻ tuổi.

Bệnh thận mạn thường diễn tiến âm thầm và không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Người bệnh chỉ có thể phát hiện sớm thông qua các xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu khi khám sức khỏe định kỳ.

Tuy nhiên, việc tầm soát bệnh lý thận tại cộng đồng hiện chưa được chú trọng. Hậu quả là phần lớn người bệnh chỉ phát hiện khi đã bước sang giai đoạn nặng, thậm chí có biểu hiện suy thận, phải lọc máu cấp cứu.

Phát hiện bệnh thận ở giai đoạn muộn không chỉ làm giảm hiệu quả điều trị mà còn khiến người bệnh đối mặt với nhiều biến chứng nghiêm trọng như suy tim, suy hô hấp, tăng huyết áp nặng, rối loạn điện giải, phù phổi cấp... Bên cạnh đó, chi phí điều trị tăng cao, thời gian điều trị kéo dài và chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

TS.BS Nghiêm Trung Dũng cho biết thêm, có những bệnh nhân đến viện trong tình trạng cấp cứu do suy thận quá nặng, kèm theo biến chứng ở nhiều cơ quan khác như tim và phổi, khiến họ không còn nhiều lựa chọn điều trị.

Ngay cả khi có điều kiện ghép thận từ người thân, sức khỏe bệnh nhân quá yếu hoặc có suy tim giai đoạn cuối cũng khiến việc phẫu thuật không thể thực hiện, buộc phải lựa chọn giải pháp thay thế như lọc màng bụng hoặc chạy thận nhân tạo chu kỳ, những phương pháp gắn bó với bệnh nhân suốt phần đời còn lại.

Trong bối cảnh đó, chuyên gia nhấn mạnh vai trò then chốt của việc phát hiện sớm và điều trị bệnh thận mạn ngay từ giai đoạn đầu. Điều này không chỉ giúp người bệnh kéo dài thời gian bảo tồn chức năng thận, giảm tần suất tái khám, chi phí điều trị thấp hơn mà còn cải thiện rõ rệt chất lượng sống. Khi bệnh được kiểm soát tốt từ sớm, người bệnh có thể làm việc, sinh hoạt bình thường và hạn chế tối đa biến chứng.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ lệ phát hiện bệnh thận mạn trong giai đoạn sớm vẫn còn rất thấp. Khi đã ở giai đoạn cuối, bệnh nhân chỉ còn 3 lựa chọn điều trị: lọc máu chu kỳ (thận nhân tạo), lọc màng bụng hoặc ghép thận. Dù là phương án nào, người bệnh cũng phải đối mặt với một hành trình điều trị kéo dài, tốn kém, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất, tinh thần và kinh tế của cả gia đình.

Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc tăng cường công tác sàng lọc, truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng về bệnh thận mạn. Khám sức khỏe định kỳ, duy trì lối sống lành mạnh, kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ (như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì) là những biện pháp quan trọng để phòng ngừa bệnh thận, đặc biệt trong bối cảnh ngày càng nhiều người trẻ tuổi đang trở thành nạn nhân thầm lặng của căn bệnh này.

Nguy kịch vì tự ý sử dụng thuốc Nam cho vết thương hở khi bị mèo cào

Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa thông tin về trường hợp một bệnh nhi rơi vào tình trạng nguy kịch do tự ý sử dụng thuốc nam để điều trị vết thương hở sau khi bị mèo cào.

Bệnh nhân là cháu Giàng V.Đ (4 tuổi, trú tại tỉnh Tuyên Quang). Theo lời người nhà, ba ngày trước khi nhập viện, trong lúc chơi đùa tại nhà, cháu vô tình dẫm phải đuôi con mèo nuôi. Con vật đã quay lại cắn vào mu bàn chân trái của cháu, gây chảy máu với bốn vết thương rõ rệt.

Thay vì đưa cháu đến cơ sở y tế để xử lý vết thương, người thân đã dùng lá cây thuốc nam không rõ nguồn gốc và tác dụng đắp lên nhằm cầm máu, hoàn toàn không tiến hành sát khuẩn hay sơ cứu y tế cơ bản nào.

Hai ngày sau, cháu bé xuất hiện các triệu chứng sốt cao, mu bàn chân sưng nề, nóng đỏ, đau nhiều và bắt đầu xuất hiện vùng da thâm đen có dấu hiệu hoại tử. Gia đình đã đưa cháu đến bệnh viện tuyến dưới để điều trị, tuy nhiên do tình trạng chuyển biến nặng, cháu được chuyển gấp đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Tại Khoa Nhi, các bác sỹ tiếp nhận cháu Đ trong tình trạng suy hô hấp, mu bàn chân trái sưng nề nghiêm trọng, có vùng thâm đen hoại tử và nhiều di vật là lá cây thuốc nam còn sót lại trên vết thương.

Vùng viêm đã lan lên tới cẳng chân trái. Cháu được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết nặng, suy gan, suy thận, rối loạn đông máu và viêm mô bào nặng, kèm theo nhiều bọng nước kích thước lớn (khoảng 5x5 cm).

Bệnh nhi nhanh chóng được chỉ định điều trị tích cực bằng kháng sinh liều cao, bao phủ phổ rộng nhằm kiểm soát nhiễm khuẩn.

Đồng thời, cháu được tiêm phòng uốn ván và huyết thanh phòng dại. Sau khi tình trạng nhiễm trùng được kiểm soát, bệnh nhân hết sốt và các chỉ số đông máu ổn định hơn, cháu sẽ được chuyển đến Khoa Chấn thương chỉnh hình và Thần kinh cột sống để tiến hành cắt lọc, làm sạch các vùng hoại tử.

Theo bác sỹ Bùi Đình Dũng (Khoa Nhi), sau năm ngày điều trị tích cực, tình trạng của cháu Đ đã có tiến triển khả quan: sốt giảm, các chỉ số sinh tồn cải thiện. Tuy nhiên, đây là trường hợp điển hình cho hậu quả nghiêm trọng của việc tự ý sử dụng thuốc nam cho vết thương hở, đặc biệt là ở trẻ nhỏ.

TS.Đặng Thị Thúy, Trưởng khoa Nhi cảnh báo, việc tự ý đắp lá cây không rõ nguồn gốc lên vết thương hở rất nguy hiểm, có thể gây nhiễm trùng tại chỗ, dẫn đến hoại tử mô mềm hoặc nhiễm khuẩn lan rộng.

Những biến chứng nhẹ có thể kiểm soát được nếu điều trị kịp thời. Tuy nhiên, với những trường hợp nặng như cháu Đ nhiễm trùng lan rộng có thể dẫn đến nhiễm khuẩn huyết, suy đa cơ quan và thậm chí tử vong do nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân.

TS.Thúy cũng khuyến cáo người dân tuyệt đối không nên đắp thuốc nam hay lá cây không rõ tác dụng lên vết thương hở, đặc biệt là ở trẻ em. Khi bị thương, cần nhanh chóng đến cơ sở y tế gần nhất để được sơ cứu đúng cách, tránh những hậu quả đáng tiếc.

Giảm gánh nặng béo phì nhờ chiến lược điều trị toàn diện

Béo phì là một trong những vấn đề y tế nghiêm trọng của thế giới hiện đại, được xem là đại dịch toàn cầu trong kỷ nguyên mới.

Những biến chứng do béo phì gây ra ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể, bao gồm các rối loạn chuyển hóa, cơ học và tinh thần. Vì vậy, việc điều trị béo phì cần được thực hiện theo hướng tiếp cận sớm, toàn diện và phối hợp đa chuyên khoa để mang lại hiệu quả tối ưu.

Thông tin này được các chuyên gia nhấn mạnh tại Hội thảo khoa học chuyên đề “Tiếp cận sớm và toàn diện bệnh béo phì: Liên hệ đa chuyên khoa trong quản lý và điều trị” vừa diễn ra.

PGS-TS.Trần Quang Bính, Giám đốc chuyên môn Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, hiện nay có khoảng 1 tỷ người trên thế giới đang gặp các vấn đề liên quan đến béo phì, trong đó tại Việt Nam, tỷ lệ này chiếm khoảng 18% dân số.

Béo phì gây ra các biến chứng nghiêm trọng như các rối loạn chuyển hóa (đái tháo đường, bệnh tim mạch, rối loạn mỡ máu, bệnh lý mạch vành, đột quỵ, gan nhiễm mỡ, sỏi mật, rối loạn đông máu...), cơ học (ảnh hưởng đến hệ cơ xương khớp, gãy xương, hệ sinh sản...), và cả tinh thần (trầm cảm...).

Nguyên nhân của béo phì đến từ nhiều yếu tố kết hợp như di truyền, lối sống, môi trường sống và cả tác dụng phụ của thuốc. Chính vì thế, để điều trị hiệu quả béo phì, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các chuyên khoa, áp dụng mô hình điều trị đa mô thức.

Béo phì liên quan chặt chẽ đến các bệnh tim mạch - chuyển hóa như bệnh mạch vành, đái tháo đường type 2, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, đột quỵ và rối loạn chức năng mạch máu. Theo thống kê, người có chỉ số BMI từ 25–29,9 kg/m² có nguy cơ tăng huyết áp gấp ba lần so với người có BMI bình thường.

Béo phì không chỉ làm tăng nguy cơ suy tim mà còn góp phần gia tăng tỷ lệ tử vong do bệnh lý tim mạch. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc giảm cân không chỉ cải thiện sức khỏe tổng thể mà còn giúp kiểm soát hiệu quả các bệnh lý mạn tính.

Cụ thể, giảm 5% cân nặng giúp cải thiện huyết áp và đường huyết; giảm 5-10% cân nặng giúp cải thiện tình trạng buồng trứng đa nang, gan nhiễm mỡ, rối loạn mỡ máu; giảm từ 15% cân nặng trở lên giúp giảm tỷ lệ tử vong do tim mạch, cải thiện gan nhiễm mỡ và kiểm soát đái tháo đường type 2 hiệu quả hơn.

Hầu hết các khuyến cáo hiện nay đều nhấn mạnh rằng điều trị thừa cân, béo phì cần kết hợp giữa thay đổi lối sống (chế độ ăn uống hợp lý, tăng cường vận động thể chất, liệu pháp hành vi), sử dụng thuốc điều trị hoặc phẫu thuật khi cần thiết. Đặc biệt, hoạt chất Liraglutide đã được chứng minh có khả năng giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân đến 15%, và giảm nguy cơ tử vong do tim mạch đến 22%.

Dẫn chứng qua các trường hợp lâm sàng cụ thể, BS.CKI Đỗ Tiến Vũ, Khoa Nội tiết - Đái tháo đường, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tình trạng thừa cân - béo phì, việc kiểm soát cân nặng cần được đặt lên hàng đầu, song song với quản lý đường huyết.

Chỉ cần giảm từ 3-7% trọng lượng cơ thể đã có thể cải thiện đáng kể chỉ số đường huyết, giảm nguy cơ tim mạch và điều hòa kinh nguyệt ở phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang.

Việc giảm cân có thể được hỗ trợ bằng thuốc phù hợp, kết hợp chế độ dinh dưỡng khoa học và thay đổi lối sống, tạo thành một mô hình điều trị đa mô thức hiệu quả và an toàn.

Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng béo phì là một bệnh lý mãn tính, phức tạp và cần được quản lý như một chiến lược lâu dài. Tiếp cận sớm và phối hợp điều trị đa chuyên khoa là hướng đi tất yếu để mang lại hiệu quả bền vững, cải thiện chất lượng sống và giảm thiểu gánh nặng bệnh tật cho cá nhân và cộng đồng.

Tin y tế mới ngày 22/12: Gánh nặng bệnh thận mạn tại Việt Nam
Bệnh thận mạn không thể khỏi hoàn toàn. Ngay cả khi người bệnh đã được ghép thận thành công, họ vẫn được xem là mắc bệnh thận mạn vì...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư