Thứ Năm, Ngày 18 tháng 12 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 18/12: Chủ động tiêm vắc-xin phế cầu để chặn nguy cơ bệnh hô hấp mùa Đông
D.Ngân - 18/12/2025 09:12
 
Mùa Đông với nền nhiệt thấp và độ ẩm cao luôn được xem là thời điểm “điểm nóng” của các bệnh lý đường hô hấp.

Chủ động tiêm vắc-xin phế cầu để chặn đứng nguy cơ bệnh hô hấp mùa Đông

Theo BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền, Giám đốc Trung tâm Phòng, chống dịch, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, đây cũng là giai đoạn các bệnh do phế cầu khuẩn gia tăng rõ rệt, âm thầm nhưng đặc biệt nguy hiểm, đòi hỏi sự chủ động phòng ngừa từ mỗi cá nhân và toàn xã hội.

Tiêm vắc-xin là biện pháp hữu hiệu phòng chống phế cầu khuẩn.

Phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) là tác nhân gây bệnh không xa lạ trong y học, song mức độ nguy hiểm của vi khuẩn này thường bị đánh giá thấp.

BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền cho biết, phế cầu khuẩn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây viêm phổi nặng, viêm màng não và nhiễm khuẩn huyết - những bệnh có thể diễn tiến nhanh, để lại di chứng nặng nề hoặc đe dọa tính mạng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Điểm đáng lo ngại là phế cầu khuẩn có thể tồn tại sẵn trong vùng mũi họng của người khỏe mạnh mà không gây triệu chứng. Khi cơ thể suy giảm sức đề kháng, đặc biệt trong những đợt rét đậm, rét hại, vi khuẩn này dễ dàng “chuyển trạng thái” từ cư trú sang gây bệnh.

“Mùa Đông tạo ra điều kiện thuận lợi cho phế cầu khuẩn phát triển, trong khi khả năng chống đỡ của cơ thể lại suy yếu, nhất là ở trẻ nhỏ và người cao tuổi”, bác sỹ Huyền phân tích.

Theo BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền, trẻ em dưới 5 tuổi với hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, người từ 65 tuổi trở lên, người mắc các bệnh mạn tính như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, tim mạch, đái tháo đường, gan, thận, người suy giảm miễn dịch và người hút thuốc lá là những nhóm có nguy cơ cao nhất.

Ở các đối tượng này, bệnh do phế cầu khuẩn thường không chỉ dừng lại ở viêm đường hô hấp thông thường mà dễ tiến triển thành viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết hoặc viêm màng não.

Các biểu hiện ban đầu của bệnh thường không điển hình: sốt, ho, ớn lạnh, đau ngực, thở nhanh hoặc khó thở. Chính sự “mơ hồ” này khiến nhiều người chủ quan, tự điều trị tại nhà, dẫn đến nhập viện muộn.

“Không ít trường hợp khi đến cơ sở y tế thì bệnh đã diễn tiến nặng, gây biến chứng nguy hiểm, làm tăng nguy cơ tử vong”, BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền cảnh báo.

Bên cạnh mức độ nguy hiểm, khả năng lây lan của phế cầu khuẩn cũng là yếu tố đáng lưu ý. Vi khuẩn lây chủ yếu qua đường hô hấp thông qua dịch tiết khi ho, hắt hơi, nói chuyện ở khoảng cách gần hoặc dùng chung đồ cá nhân.

Trong điều kiện sinh hoạt khép kín, ít thông thoáng vào mùa Đông, nguy cơ lây nhiễm trong gia đình và cộng đồng càng gia tăng.

Trước thực tế đó, BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền khẳng định, tiêm vắc-xin phòng phế cầu là giải pháp phòng bệnh hiệu quả và bền vững nhất hiện nay.

Vắc-xin giúp cơ thể tạo miễn dịch chủ động, không chỉ làm giảm nguy cơ mắc bệnh mà còn hạn chế mức độ nặng và các biến chứng nguy hiểm nếu không may nhiễm phế cầu khuẩn. Đây được xem là “lá chắn” quan trọng, đặc biệt đối với các nhóm nguy cơ cao.

Theo bác sỹ Huyền, hiện nay Việt Nam đã có nhiều loại vắc-xin phòng phế cầu phù hợp với từng độ tuổi và đối tượng, với lịch tiêm được khuyến cáo rõ ràng. Việc tiêm phòng đầy đủ và đúng lịch không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn góp phần bảo vệ cộng đồng, giảm gánh nặng bệnh tật và hạn chế tình trạng quá tải tại các cơ sở y tế trong mùa lạnh.

“Mùa Đông không chỉ là thời điểm của rét mướt mà còn là thời điểm thử thách hệ miễn dịch của mỗi người. Chủ động tiêm vắc-xin phòng phế cầu chính là hành động thiết thực để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và xã hội”, BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền nhấn mạnh.

Trong bối cảnh các bệnh hô hấp có xu hướng gia tăng mạnh vào những tháng cuối năm, thông điệp mà BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền đưa ra mang tính cảnh báo và định hướng rõ ràng: phòng bệnh bằng vắc-xin là giải pháp chủ động, hiệu quả và cần được thực hiện sớm, trước khi những biến chứng nguy hiểm có cơ hội xảy ra.

Liên quan đến các bệnh truyền nhiễm, Bộ Y tế xác định nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong.

9 bệnh truyền nhiễm vừa được bổ sung vào danh mục này bao gồm bệnh do virus HPV (Human Papilloma Virus), bệnh do Haemophilus influenzae týp b (Hib), bệnh do phế cầu, viêm đường hô hấp do virus hợp bào (RSV); viêm phổi do vi khuẩn Legionella pneumophila, bệnh do vi khuẩn Whitmore, bệnh do virus Chikungunya, ngộ độc thịt do vi khuẩn Clostridium botulinum, bệnh do vi khuẩn Listeria monocytogenes.

Cập nhật kiến thức về đột quỵ não và bệnh lý mạch máu não cho người bệnh

Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vừa tổ chức chương trình “Cập nhật kiến thức về đột quỵ não và bệnh lý mạch máu não”, nhằm trang bị cho người bệnh và người nhà người bệnh những kiến thức thiết yếu về dấu hiệu nhận biết sớm, các yếu tố nguy cơ cũng như cách xử trí ban đầu, qua đó góp phần chủ động phòng ngừa và nâng cao hiệu quả điều trị đột quỵ não.

Tại chương trình, GS.TS Nguyễn Văn Thông, Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam đã trực tiếp chia sẻ và giải đáp nhiều câu hỏi xoay quanh chủ đề “Tổng quan về đột quỵ nhồi máu não cấp”.

Theo GS-TS.Nguyễn Văn Thông, đột quỵ hiện là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật trên toàn cầu. Dẫn số liệu của Tổ chức Đột quỵ Thế giới (WSO, 2025), ông cho biết cứ 4 người trên 25 tuổi thì có 1 người sẽ bị đột quỵ trong suốt cuộc đời.

Mặc dù y học đã đạt được nhiều tiến bộ trong điều trị đột quỵ cấp, song hơn một nửa số người bệnh vẫn phải đối mặt với các kết cục không mong muốn như tàn tật lâu dài hoặc tử vong.

Bên cạnh các yếu tố nguy cơ truyền thống gồm tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, hút thuốc lá, béo phì và đái tháo đường, GS-TS.Nguyễn Văn Thông đặc biệt lưu ý đến những yếu tố nguy cơ đang gia tăng ở nhóm người trẻ tuổi.

Lối sống ít vận động, chế độ ăn nhiều thức ăn nhanh giàu chất béo, áp lực công việc kéo dài, lạm dụng thuốc tránh thai và các chất kích thích đang góp phần làm trẻ hóa nguy cơ đột quỵ trong cộng đồng.

Cũng trong khuôn khổ chương trình, bác sỹ Phạm Văn Cường, Khoa Can thiệp mạch Thần kinh đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng liên quan đến các bệnh lý mạch máu não, đặc biệt là túi phình mạch não và dị dạng thông động, tĩnh mạch não (AVM).

Theo bác sỹ Cường, người dân cần lưu ý đến nguy cơ dị dạng mạch máu não khi xuất hiện các dấu hiệu như động kinh khởi phát trước 40 tuổi, đau đầu kéo dài không rõ nguyên nhân hoặc có tiền sử gia đình mắc các bệnh lý dị dạng mạch máu não.

Chương trình thu hút sự tham gia của gần 100 người bệnh và thân nhân. Qua ghi nhận, phần lớn người tham dự bày tỏ mong muốn được tiếp cận thêm kiến thức về các dấu hiệu cảnh báo sớm của đột quỵ và cách xử trí ban đầu tại nhà trong khi chờ cấp cứu. Đây được xem là những yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả điều trị và khả năng phục hồi của người bệnh.

Bên cạnh hoạt động cập nhật kiến thức chuyên môn và giải đáp thắc mắc trực tiếp, chương trình còn lồng ghép các hoạt động công tác xã hội như yoga cười và trao quà cho người bệnh, góp phần tạo không khí tích cực, giúp người bệnh thư giãn tinh thần trong quá trình điều trị.

Đột quỵ não hiện không còn là bệnh hiếm gặp và có thể xảy ra ở bất kỳ đối tượng nào. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều người dân vẫn chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về các dấu hiệu cảnh báo sớm cũng như cách xử trí ban đầu khi đột quỵ xảy ra. Điều này khiến không ít trường hợp nhập viện muộn, bỏ lỡ “thời gian vàng” trong điều trị, dẫn đến di chứng nặng nề hoặc tử vong.

Thông qua chương trình, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 kỳ vọng góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về đột quỵ não và các bệnh lý mạch máu não, hướng tới mục tiêu phát hiện sớm, xử trí kịp thời và giảm thiểu tối đa các biến chứng cho người bệnh.

Nỗ lực điều trị ung thư phổi giai đoạn muộn của cụ bà 70 tuổi

Dù được chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn IV với nhiều đột biến gen phức tạp và tình trạng kháng thuốc sau thời gian điều trị, bà Hòa (70 tuổi) vẫn kiên trì theo đuổi phác đồ điều trị, giữ vững tinh thần lạc quan và đạt được kết quả khả quan nhờ các tiến bộ của y học hiện đại.

Trước khi phát bệnh, bà Hòa có sức khỏe tốt, hầu như không mắc bệnh vặt, không có các triệu chứng thường gặp của bệnh phổi như ho hay khó thở. Trong một lần khám sức khỏe tổng quát vào tháng 7/2023, bà được phát hiện tràn dịch màng phổi. Kết quả chụp CT cho thấy phổi phải có khối u kích thước khoảng 3 cm, nghi ngờ ác tính. Thông tin chẩn đoán ban đầu khiến bà không khỏi bàng hoàng.

Được sự động viên của gia đình, bà Hòa nhanh chóng lấy lại tinh thần và tuân thủ kế hoạch chẩn đoán, điều trị của bác sỹ.

Sau lần sinh thiết đầu tiên qua nội soi phế quản cho kết quả viêm, bà tiếp tục được nội soi lồng ngực phải. Kết quả giải phẫu bệnh xác định bà mắc carcinoma tuyến biệt hóa cao, ung thư phổi không tế bào nhỏ, có đột biến gen và đã di căn màng phổi, được xếp giai đoạn IV.

Bà Hòa được phát hiện mang đột biến gen EGFR và được chỉ định điều trị bằng thuốc trúng đích thế hệ 1 từ tháng 9/2023. Phác đồ này mang lại hiệu quả tích cực trong giai đoạn đầu, giúp kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư, duy trì sức khỏe và chất lượng sống cho người bệnh.

Tuy nhiên, sau khoảng 1,5 năm điều trị, bà bắt đầu xuất hiện triệu chứng đau ngực lan lên vai phải. Theo Tiến sỹ, bác sỹ Lê Tấn Đạt, Phó giám đốc Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, kết quả chụp CT lồng ngực cho thấy nhiều nốt đặc và vi nốt đặc rải rác hai phổi, kèm tình trạng xơ xẹp phổi.

Các bác sỹ đánh giá có khả năng bệnh bắt đầu xuất hiện tình trạng kháng thuốc, song do biểu hiện chưa rõ ràng nên bệnh nhân vẫn được tiếp tục điều trị bằng thuốc trúng đích thế hệ 1 và theo dõi sát.

Đến tháng 10/2025, cơn đau ngực của bà Hòa gia tăng rõ rệt. Hình ảnh CT cho thấy khối u đã tăng kích thước lên khoảng 4 cm. Các bác sỹ quyết định chỉ định sinh thiết u phổi nhằm tìm kiếm các đột biến gen liên quan đến cơ chế kháng thuốc. Hiểu rõ ý nghĩa của việc xác định chính xác đặc điểm sinh học của khối u, bà Hòa tiếp tục thể hiện quyết tâm theo đúng lộ trình điều trị.

Ê-kíp điều trị tiến hành sinh thiết dưới hướng dẫn của CT scan, xác định chính xác vị trí, độ sâu và đường đi an toàn của kim sinh thiết nhằm tránh tổn thương các mạch máu lớn và cơ quan lân cận, đồng thời giảm nguy cơ biến chứng như tràn khí màng phổi hay ho ra máu. Do đặc điểm khối u khó tiếp cận, bà Hòa phải trải qua hai lần sinh thiết.

Kết quả giải phẫu bệnh và nhuộm hóa mô miễn dịch cho thấy xuất hiện đột biến T790M trên gen EGFR, cùng một số đột biến khác trên các gen mTOR và TP53, làm tăng mức độ phức tạp của bệnh.

Theo bác sỹ Lê Tấn Đạt, việc phát hiện các đột biến kháng thuốc này đã mở ra cơ hội điều trị bằng thuốc trúng đích thế hệ 3, giúp ức chế sự phát triển của ung thư phổi hiệu quả hơn. Đáng chú ý, thuốc trúng đích thế hệ mới hiện nay cũng được hỗ trợ chi trả đáng kể theo quy định của Bộ Y tế, giúp giảm gánh nặng chi phí cho người bệnh.

Bên cạnh ung thư phổi, bà Hòa còn mắc viêm gan B mạn tính. Việc chuyển sang điều trị bằng thuốc trúng đích thế hệ 3 giúp giảm nguy cơ bùng phát viêm gan B so với hóa trị. Hiện tại, sức khỏe của bà Hòa ổn định, triệu chứng đau ngực thuyên giảm, các chỉ số xét nghiệm máu trong giới hạn bình thường.

Theo bác sỹ Tấn Đạt, kháng thuốc trong điều trị ung thư là hiện tượng thuốc không còn khả năng kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư sau một thời gian mang lại hiệu quả. Nguyên nhân là do tế bào ung thư có khả năng biến đổi để “né tránh” thuốc, kích hoạt các đường tín hiệu phát triển thay thế hoặc xuất hiện các đột biến gen mới khiến thuốc cũ mất tác dụng.

Vì vậy, người bệnh ung thư phổi cần được theo dõi chặt chẽ bằng các xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh định kỳ.

Khi xuất hiện các dấu hiệu nghi ngờ kháng thuốc như khối u tăng kích thước hoặc chỉ số kháng nguyên ung thư CEA tăng, bác sỹ sẽ chỉ định sinh thiết lại để xác định cơ chế kháng thuốc, từ đó điều chỉnh phác đồ điều trị, chuyển sang thuốc thế hệ mới hoặc kết hợp các phương pháp như hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch.

Bác sỹ Tấn Đạt nhấn mạnh, với sự phát triển mạnh mẽ của y học hiện đại, đặc biệt là các thuốc trúng đích thế hệ 3, thế hệ 4, xạ trị công nghệ cao và liệu pháp miễn dịch, ung thư phổi giai đoạn muộn không còn đồng nghĩa với “dấu chấm hết”.

Người bệnh vẫn có nhiều lựa chọn điều trị nối tiếp nhằm kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong đó, tinh thần kiên cường, không bỏ cuộc của người bệnh chính là yếu tố quan trọng góp phần quyết định hiệu quả điều trị lâu dài.

Bộ Y tế đề xuất đưa vắc-xin phế cầu và ung thư cổ tử cung vào tiêm chủng mở rộng
Bộ Y tế đề xuất bổ sung vắc-xin phòng bệnh phế cầu và ung thư cổ tử cung vào chương trình tiêm chủng quốc gia.
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư