
-
TTCK phiên 13/10: Dòng tiền vẫn “thiên vị” cổ phiếu lớn, VN30 vượt 2.000 điểm
-
Đề nghị quy định cụ thể trong luật mức giảm trừ gia cảnh
-
Rủi ro từ thương chiến Mỹ - Trung khó ảnh hưởng đến nền tảng lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết
-
Trung tâm tài chính quốc tế: Cơ hội để ngân hàng huy động thêm nguồn vốn xanh
-
Tăng mạnh tiền cho vay margin, MBS báo lãi kỷ lục trong quý III/2025 -
Nâng hạng thị trường chứng khoán: Tiến vào “cửa biển” vốn quốc tế
Bộ Tài chính đang hoàn thiện dự thảo tờ trình Dự án Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.
![]() |
Đáng chú ý, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng vàng. Cụ thể, tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2% và gộp dòng theo tên gọi mặt hàng theo đúng Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) mà Việt Nam đã ký kết, không chia cụ thể theo hàm lượng vàng để đơn giản hóa Biểu thuế.
Tuy nhiên, kiến nghị với Bộ Tài chính, VGTA cho rằng, để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh vàng ổn định sản xuất nên quy định thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ bằng 0%.
Vì theo VGTA, nếu theo mức thuế 2% như dự thảo chắc chắn các doanh nghiệp kinh doanh vàng sẽ không thể thực hiện xuất khẩu được các mặt hàng này.
Do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh vàng trên thị trường quốc tế hiện nay rất yếu. Để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh vàng ổn định sản xuất nên quy định thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ bằng 0%.
Trong trường hợp, nếu Bộ Tài chính thấy cần hạn chế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng cao từ 95% trở lên thì có thể giữ mức thuế xuất khẩu theo quy định hiện hành tại, tức giữ lại mức thuế 0% đối với vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng vàng từ dưới 95% trở xuống còn từ 95% trở lên thì vẫn mức 2% thuế xuất khẩu.
Bởi theo VGTA, do các doanh nghiệp không được nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong bối cảnh giá vàng nguyên liệu trong nước luôn cao hơn giá vàng quốc tế từ 6-8 triệu đồng/lượng và đầu tư thiết bị công nghệ (trừ một vài doanh nghiệp lớn) thì các doanh nghiệp kinh doanh vàng Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh vàng nước ngoài nếu chưa có sự hỗ trợ thỏa đáng về mặt chính sách.
Trong khi đó, các doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore… đang có nhiều lợi thế cạnh tranh như thuế nhập khẩu vàng nguyên liệu bằng 0%, thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ cũng bằng 0% và họ còn được nhập khẩu vàng nguyên liệu. và chi phí nhân công rẻ hơn, thiết bị công nghệ hiện đại hơn…
Đồng thời chính sách vĩ mô của các quốc gia này ổn định và khuyến khích phát triển thị trường vàng bạc đá quý. Do đó kim ngạch xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ của các quốc gia này đã đạt mức khá ấn tượng như: Thái Lan đã vượt trên 10 tỷ USD, Singapore trên 8 tỷ USD, Indonesia trên 6 tỷ USD… (Theo số liệu của hội đồng vàng thế giới) và ngành vàng bạc đá quý các quốc gia này đã trở thành một trong những ngành mũi nhọn của nền kinh tế.
VGTA cho rằng, quy định mức 2% như dự thảo chỉ để “đơn giản hoá Biểu thuế” và thuận lợi cho công tác hải quan ,nhưng doanh nghiệp vàng lại không thể xuất khẩu, đồng nghĩa nguồn thu ngân sách thông qua thuế xuất từ hoạt động này có thể sẽ bằng 0.
Đồng thời, trong trường hợp vẫn quy định để thuế xuất khẩu 2%, việc xuất khẩu chính ngạch sẽ không có và vàng xuất khẩu lậu qua biên giới sẽ tăng mạnh rất khó kiểm soát. Kéo theo việc điều hành chính sách tiền tệ ngày càng khó khăn.
Trong khi đó, dù để mức thuế xuất khẩu 0% nhưng doanh nghiệp vàng vẫn xuất khẩu được và nộp cho ngân sách những khoản tiền thuế rất lớn khác thông qua kênh thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT…
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, trong năm 2019 các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã xuất khẩu được 2,1 tỷ USD, tăng 231,2% so với cùng kỳ năm 2018. Trong năm 2020 xuất khẩu được 2,6 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu tập trung chủ yếu mặt hàng đồ kỹ nghệ và các bộ phận của đồ kỹ nghệ bằng vàng, đã hoặc chưa mạ hoặc dát phủ kim loại quý, có hàm lượng vàng dưới 95%.
Riêng Tập đoàn DOJI từ năm 2016-2020 đã xuất khẩu được 53,8 tấn sản phẩm vàng kim hoàn, mỹ nghệ thu về cho đất nước 2,5 tỷ USD.
Vì thế, theo VNTA, nếu ngành vàng bạc đá quý Việt Nam nhận được sự hỗ trợ tốt từ chính sách của Chính phủ thì chắc chắn trong tương lai gần ngành công nghiệp chế tác này cũng sẽ trở thành một trong những ngành mũi nhọn của nền kinh tế.

-
Rủi ro từ thương chiến Mỹ - Trung khó ảnh hưởng đến nền tảng lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết -
Góc nhìn TTCK tuần 13-17/10: Lọc cơ hội trên nền tảng kết quả kinh doanh quý III -
Tái cơ cấu danh mục quý IV, chỉ số VNDiamond sẽ thêm bớt cổ phiếu nào? -
Trung tâm tài chính quốc tế: Cơ hội để ngân hàng huy động thêm nguồn vốn xanh -
Tăng mạnh tiền cho vay margin, MBS báo lãi kỷ lục trong quý III/2025 -
Nâng hạng thị trường chứng khoán: Tiến vào “cửa biển” vốn quốc tế -
CRV tăng kịch trần, đạt 31.200 đồng/CP ngày chào sàn
-
DOJI tiếp tục được vinh danh là Doanh nghiệp Xuất sắc châu Á tại APEA 2025
-
Bộ Công thương tổ chức chuỗi hội nghị tham vấn hoàn thiện Dự thảo Chương trình GoGlobal
-
A&T Saigon Riverside bắt nhịp xu hướng “resort-style living” giữa lòng đô thị
-
MICC Group bùng nổ cùng sự kiện giới thiệu Vinhomes Green Paradise tại miền Bắc
-
ABB mở rộng danh mục giải pháp dân dụng và ủy quyền nhà phân phối mới tại Việt Nam
-
Generali Việt Nam lập "Hat-trick" giải thưởng tại Asia Pacific Enterprise Awards 2025