Thứ Sáu, Ngày 10 tháng 10 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 10/10: Ước tính có khoảng 3 triệu em mắc các tật khúc xạ cần được chỉnh kính
D.Ngân - 10/10/2025 10:35
 
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2 triệu người bị mù và thị lực kém, trong đó khoảng 1/3 là người nghèo không có khả năng chi trả cho các dịch vụ điều trị nhằm mang lại ánh sáng.

Trong khi đó, trên 80% trường hợp mù lòa ở nước ta hoàn toàn có thể phòng ngừa hoặc điều trị được. Riêng ở trẻ em, ước tính có khoảng 3 triệu em mắc các tật khúc xạ cần được chỉnh kính.

Việt Nam có khoảng 2 triệu người mù, thị lực kém

Bệnh viện Mắt Trung ương tổ chức lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Thị giác Thế giới 2025 với chủ đề “Love your eye” (Hãy yêu đôi mắt của bạn).

 Ước tính có khoảng 3 triệu em mắc các tật khúc xạ cần được chỉnh kính.

Sự kiện nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về việc chăm sóc và bảo vệ thị lực, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng ngừa mù lòa. Đồng thời, Bệnh viện Mắt Trung ương kêu gọi người dân chủ động khám mắt định kỳ tại các cơ sở nhãn khoa gần nhất, chung tay cùng ngành Mắt Việt Nam bảo vệ thị lực cộng đồng.

TS.BS Trần Thu Hương, Khoa Mắt trẻ em, Bệnh viện Mắt Trung ương chia sẻ, kết quả khảo sát tại các trường tiểu học và trung học cơ sở ở Hà Nội (năm 2000) và TP.HCM (năm 2023) cho thấy tại Hà Nội, 51% trẻ em mắc tật khúc xạ, trong đó cận thị chiếm 37,5%, viễn thị khoảng 8% và loạn thị 5%. Đáng chú ý, tại TP.HCM, tỷ lệ trẻ mắc tật khúc xạ lên đến hơn 75%, riêng cận thị chiếm gần 53%.

Nếu tính riêng nhóm trẻ từ 6-15 tuổi, độ tuổi cần được ưu tiên chỉnh kính ở Việt Nam hiện có gần 15 triệu em, với khoảng 20% mắc tật khúc xạ. Như vậy, ước tính có khoảng 3 triệu trẻ cần được chỉnh kính, trong đó có tới 2/3 bị cận thị. Tuy nhiên, việc khám và cấp kính vẫn đang gặp nhiều rào cản do nhận thức chưa đầy đủ, thiếu cơ sở vật chất và kinh phí hạn chế.

Nhằm đối phó với thực trạng đáng báo động này, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng chống mù lòa giai đoạn 2020 và tầm nhìn đến 2030, với mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc mắt, phát hiện sớm và điều trị, phục hồi chức năng thị giác cho người dân.

Đồng thời, hướng tới loại trừ các nguyên nhân chính gây mù lòa, đảm bảo “quyền được nhìn thấy” cho hàng triệu người, như khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Cụ thể, đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu giảm tỷ lệ mù lòa xuống dưới 4 người/1.000 dân, trong đó giảm tỷ lệ mù ở người trên 50 tuổi xuống dưới 12 người/1.000 dân; tăng tỷ lệ phẫu thuật đục thủy tinh thể đạt trên 3,5 người/1.000 dân và đạt tỷ lệ thành công trên 95%; nâng tỷ lệ người bệnh đái tháo đường được khám và theo dõi bệnh lý võng mạc lên 75%; đồng thời tăng tỷ lệ học sinh được khám, phát hiện sớm và chỉnh kính tật khúc xạ tại trường học lên trên 75%.

Chiến lược cũng đề ra các giải pháp đồng bộ như: nâng cao nhận thức cộng đồng và củng cố mạng lưới chăm sóc mắt; hoàn thiện hệ thống chính sách phòng chống mù lòa; kiểm soát các nguyên nhân chính gây mất thị lực; tăng cường chuyển giao kỹ thuật và nâng cao năng lực cho tuyến y tế cơ sở; huy động nguồn lực xã hội và tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế để triển khai hiệu quả chương trình.

Mù lòa không chỉ khiến người bệnh mất đi khả năng lao động, học tập và sinh hoạt mà còn là nguyên nhân làm trầm trọng thêm nghèo đói, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây không còn là trách nhiệm riêng của ngành y tế hay ngành Mắt mà là thách thức lớn, đòi hỏi sự tham gia tích cực của chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội và toàn thể cộng đồng.

Phát hiện ung thư phổi ở giai đoạn sớm

Chủ động tầm soát ung thư phổi ngay cả khi chưa có triệu chứng giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, tăng khả năng điều trị triệt căn và phục hồi sức khỏe. Giữa năm 2025, bà Nguyệt, 65 tuổi đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM để tầm soát ung thư phổi do có tiền sử gia đình mắc bệnh.

Kết quả chụp CT lồng ngực cho thấy bà có khối u ở thùy giữa phổi phải, kích thước 1,5 cm. Dù được bác sĩ tư vấn can thiệp sớm, bà lo lắng và xin theo dõi thêm.

Sau 4 tháng, trong lần thăm khám tại chuyên khoa Ngoại Lồng ngực, Mạch máu, mặc dù kích thước u không tăng đáng kể, bác sĩ vẫn đánh giá đây là tổn thương nguy cơ ác tính cao và chỉ định phẫu thuật nội soi kết hợp sinh thiết lạnh để xác định bản chất khối u.

Một trường hợp khác là ông Phương, 52 tuổi, có tiền sử hút thuốc gần 30 năm, đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe tổng quát. Chụp CT phát hiện khối u 2 cm ở phổi phải. Qua đánh giá hình ảnh, bác sĩ nhận thấy khối u có bề mặt gồ ghề, mật độ chắc, dấu hiệu ác tính và chỉ định mổ sớm để ngăn chặn bệnh tiến triển.

Cả hai bệnh nhân đều được phẫu thuật cắt bỏ khối u bằng hệ thống robot hiện đại Da Vinci Xi, kết hợp sinh thiết lạnh ngay trong mổ. Chỉ sau 30 phút, kết quả xác nhận cả hai trường hợp đều là ung thư phổi ác tính.

Bà Nguyệt được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (1B), chưa có xâm lấn xung quanh nên được phẫu thuật cắt toàn bộ thùy giữa phổi phải và nạo vét hạch triệt căn.

Ông Phương được xác định ở giai đoạn 2A, khối u đã lan đến hạch bạch huyết kế cận nhưng chưa di căn xa, nên bác sỹ thực hiện cắt thùy giữa phổi và nạo hạch bằng robot hỗ trợ.

Phẫu thuật là phương pháp điều trị quan trọng giúp loại bỏ triệt để khối u, đặc biệt hiệu quả với ung thư phổi giai đoạn sớm. Như bà Nguyệt, nhờ phát hiện sớm và u chưa di căn, bà không cần điều trị bổ trợ sau mổ và nhanh chóng hồi phục, trở lại cuộc sống bình thường.

Tuy nhiên, với những ca đã có xâm lấn hạch như ông Phương, phẫu thuật chỉ là bước khởi đầu trong điều trị. Sau mổ, người bệnh được hướng dẫn tập thở, vận động sớm, có thể xuất viện sau 5 ngày, đồng thời bác sĩ xây dựng phác đồ hóa trị - xạ trị kết hợp nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại và ngăn tái phát.

Bác sỹ Dũng cho biết, nhiều bệnh nhân lầm tưởng rằng sau khi cắt trọn khối u là đã khỏi bệnh, nên từ chối điều trị bổ trợ. Tuy nhiên, ung thư phổi có thể đã di căn ẩn ngay từ giai đoạn sớm, tức là tế bào ung thư đã theo máu hoặc bạch huyết di chuyển đến nơi khác nhưng chưa biểu hiện trên hình ảnh học. Vì vậy, điều trị bổ trợ bằng hóa trị, xạ trị, thuốc đích hay liệu pháp miễn dịch là vô cùng cần thiết nhằm ngăn ngừa tái phát hoặc tiến triển.

Theo TTND.TS.BS.CKII Phạm Xuân Dũng, Giám đốc Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao để làm tổn thương và tiêu diệt tế bào ung thư, ngăn chúng sinh sản.

Trong khi đó, hóa trị là dùng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư trên toàn thân, được thực hiện theo chu kỳ để cơ thể có thời gian phục hồi giữa các đợt điều trị. Xạ trị thường thực hiện sau phẫu thuật, còn hóa trị có thể được chỉ định trước hoặc sau mổ.

Một số trường hợp được kết hợp cả hai phương pháp gọi là hóa xạ đồng thời nhằm tăng hiệu quả điều trị. Ngoài ra, các phương pháp hiện đại như liệu pháp miễn dịch, giúp cơ thể tự nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư hay thuốc trúng đích tấn công vào các đột biến cụ thể của tế bào ung thư mà ít ảnh hưởng đến tế bào lành cũng đang ngày càng phát huy vai trò trong điều trị ung thư phổi.

Về mặt phòng ngừa, việc tránh xa thuốc lá là yếu tố then chốt vì đây là nguyên nhân chính gây ung thư phổi. Nếu không hút hoặc ngừng hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh có thể giảm tới 90%.

Ngoài ra, cần duy trì lối sống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, ăn uống cân đối, hạn chế rượu bia, giữ cân nặng hợp lý và kiểm soát căng thẳng. Những người có yếu tố nguy cơ cao như hút thuốc, làm việc trong môi trường độc hại hoặc có người thân mắc ung thư phổi nên chủ động tầm soát định kỳ.

Khi xuất hiện các triệu chứng như ho kéo dài không rõ nguyên nhân, ho ra máu, khàn giọng, đau ngực, khó thở, đau lan vai, sụt cân bất thường, mệt mỏi kéo dài hoặc nhiễm trùng hô hấp tái phát nhiều lần, cần đi khám sớm để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Triệu chứng tưởng lo âu hóa ra u não hiếm gặp sát thân não

Chị Trang, 38 tuổi, ban đầu chỉ cảm thấy đau đầu từng cơn ở vùng chẩm như điện giật, lan từ gáy lên đỉnh đầu, kèm theo cảm giác mệt mỏi, lo lắng và bồn chồn khó lý giải. Nghĩ rằng do căng thẳng công việc, chị không đi khám. Tuy nhiên, vào một buổi chiều, cơn đau đầu trở nên dữ dội, kèm theo yếu nhẹ tay trái và cảm xúc bất thường, chị được người nhà đưa đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cấp cứu.

ThS.BS.CKII Chu Tấn Sĩ, Trưởng khoa Ngoại Thần kinh - Cột sống, Trung tâm Khoa học Thần kinh, sau khi thăm khám, nghi ngờ tổn thương thần kinh trung ương và chỉ định chụp cộng hưởng từ (MRI 3 Tesla) có tiêm thuốc tương phản.

Kết quả phát hiện một khối u dạng nang kích thước khoảng 4 cm nằm sát thân não, tại vùng lỗ Magendie (thuộc hố sau), chèn ép vào thùy nhộng tiểu não và mặt sau thân não, gây hẹp đường lưu thông dịch não tủy và giãn nhẹ hệ thống não thất.

Đây là vị trí đặc biệt nguy hiểm, gần trung tâm hô hấp và tuần hoàn nếu không can thiệp kịp thời có thể dẫn đến não úng thủy cấp, liệt tứ chi hoặc đột tử. Ca phẫu thuật được đánh giá là cực kỳ phức tạp do vùng mổ nằm sát các cấu trúc sống còn của não. Thách thức lớn nhất là bóc tách khối u khỏi thân não mà không làm tổn thương các dây thần kinh sọ và mạch máu nuôi não, những thành phần vô cùng quan trọng và mỏng manh.

Sau hội chẩn liên chuyên khoa, các bác sĩ quyết định mổ mở nắp sọ vùng chẩm, tiếp cận khối u qua đường hố sau. Ca mổ sử dụng kính vi phẫu Kinevo 900 tích hợp AI, hệ thống định vị thần kinh Neuro Navigation và thiết bị theo dõi điện sinh lý thần kinh (IONM) để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân.

Trong quá trình mổ, êkip mở màng cứng, tạo hành lang tiếp cận đến lỗ Magendie, vị trí nhỏ ở đáy não thất IV, nơi dịch não tủy lưu thông xuống tủy sống.

Dưới kính vi phẫu 3D độ phân giải cao, khối u hiện rõ là một túi dịch vỏ mỏng, dính nhẹ vào mô tiểu não và thân não. Bác sỹ mở vỏ nang, hút sạch dịch và bóc tách từng milimet vỏ u ra ngoài trong không gian thao tác cực kỳ giới hạn. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể gây tổn thương thần kinh nghiêm trọng dẫn tới hôn mê, liệt hoặc tử vong ngay trên bàn mổ.

Trong suốt ca phẫu thuật, hệ thống IONM ghi nhận liên tục tín hiệu thần kinh từ các điện cực đặt tại tay, chân và đầu bệnh nhân. Mọi tác động dù nhỏ cũng được cảnh báo ngay lập tức, giúp bác sĩ điều chỉnh kịp thời, bảo vệ chức năng sống cho người bệnh.

Sau gần 3 giờ, khối u được bóc tách trọn vẹn mà không làm tổn thương mô não xung quanh. Chế độ huỳnh quang 3D xác nhận hệ thống não thất đã thông thoáng, không còn chèn ép.

Hậu phẫu, chị Trang tỉnh táo, tiếp xúc tốt, sức cơ tay trái cải thiện rõ rệt. CT kiểm tra ghi nhận khối u đã lấy hết, các cấu trúc não ổn định, tụ khí và dịch trong hố sau ở mức ít. Một tuần sau mổ, bệnh nhân hồi phục tốt, bắt đầu tập vật lý trị liệu và có thể xuất viện sau ba tuần nếu không có biến chứng. Việc tái khám định kỳ sẽ giúp theo dõi nguy cơ tái phát.

Kết quả sinh thiết xác định đây là u biểu bì, dạng u lành tính, hiếm gặp (0,2-1,8% u nội sọ), thường hình thành do tế bào biểu bì bị "mắc kẹt" trong quá trình phát triển phôi thai. U chứa chất bột nhão màu trắng như phô mai, phát triển chậm và chỉ gây triệu chứng khi chèn ép các cấu trúc thần kinh quan trọng như tiểu não, dây thần kinh sọ hoặc gây giãn não thất.

Bác sỹ Tấn Sĩ khuyến cáo, các triệu chứng như đau đầu kéo dài, yếu chi, chóng mặt, nói khó, thay đổi cảm xúc bất thường như bồn chồn, lo âu… không nên xem nhẹ.

Đây có thể là dấu hiệu sớm của u não hoặc các tổn thương thần kinh nguy hiểm. Việc thăm khám và chẩn đoán sớm tại các cơ sở y tế có chuyên khoa thần kinh sẽ giúp phát hiện kịp thời và điều trị hiệu quả, tránh những biến chứng nặng nề, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Kính thông minh cải thiện các bệnh về mắt
Kính thông minh đang được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng để cải thiện các bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, lão thị…
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư