Thứ Tư, Ngày 19 tháng 11 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 19/11: Hành động phòng chống kháng kháng thuốc tại Việt Nam
D.Ngân - 19/11/2025 11:40
 
Hưởng ứng Tuần lễ truyền thông phòng, chống kháng thuốc thế giới từ ngày 18 đến 24/11 với chủ đề “Hành động ngay: Bảo vệ hiện tại, gìn giữ tương lai”, ngành Y tế Việt Nam tiếp tục khẳng định quyết tâm mạnh mẽ trong cuộc chiến chống kháng thuốc - thách thức lớn của toàn cầu hiện nay.

Hành động phòng chống kháng kháng thuốc tại Việt Nam

Kháng thuốc kháng sinh đang gây ra những hệ lụy nặng nề như kéo dài thời gian điều trị, gia tăng chi phí, đảo lộn thành tựu khoa học kỹ thuật, làm tăng nguy cơ và tỷ lệ tử vong, ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong nhiều năm qua, hàng loạt chủ trương, chính sách y tế đã được ban hành và tổ chức thực hiện, giúp Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng. Nhiều chỉ số sức khỏe vượt trội so với các quốc gia có cùng mức phát triển, và Việt Nam được đánh giá cao trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững về y tế của Liên hợp quốc.

Ảnh minh họa.

Trong các chính sách nổi bật, phòng chống kháng thuốc, đặc biệt là kháng kháng sinh được triển khai bài bản, có chiều sâu. Việt Nam là một trong 16 quốc gia ký “Tuyên bố chung về phòng, chống kháng thuốc”, đồng thời là một trong sáu nước đầu tiên ở châu Á, Thái Bình Dương ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống kháng thuốc năm 2013 theo Quyết định 2174/QĐ-BYT.

Kể từ đó, cuộc chiến chống kháng thuốc đạt nhiều kết quả quan trọng như nhận thức của cán bộ y tế và cộng đồng được nâng cao; hệ thống giám sát kháng kháng sinh được củng cố; mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn bao phủ toàn quốc; các chính sách pháp luật và hướng dẫn chuyên môn liên tục được bổ sung; việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả trong bệnh viện ngày càng được tăng cường.

Những kết quả này ghi dấu vai trò quan trọng của khoa Dược và đội ngũ dược sỹ trong các cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt là dược sỹ lâm sàng.

Họ đóng vai trò ngày càng lớn trong đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn như tư vấn xây dựng danh mục thuốc; giám sát kê đơn; xây dựng quy trình chuyên môn; hướng dẫn sử dụng thuốc cho cán bộ y tế, người bệnh và cộng đồng; phối hợp cùng vi sinh, kiểm soát nhiễm khuẩn và lâm sàng trong chương trình quản lý sử dụng kháng sinh nhằm tối ưu hóa điều trị.

Vai trò này được luật hóa trong Luật Dược 2016 và Nghị định 131/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động dược lâm sàng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Việc áp dụng kê đơn điện tử theo Thông tư 26/2025/TT-BYT cũng góp phần tăng cường quản lý, giảm sai sót trong kê đơn và rút ngắn thời gian cho cán bộ y tế.

Tuy nhiên, tình hình kháng kháng sinh ở Việt Nam vẫn đáng lo ngại. Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia có tỷ lệ kháng thuốc cao nhất thế giới.

Nhiều vi khuẩn đã kháng với đa số kháng sinh phổ biến, thậm chí cả các kháng sinh thế hệ mới. Nguyên nhân chủ yếu là nhận thức chưa đầy đủ; lạm dụng và sử dụng kháng sinh không hợp lý; việc mua bán kháng sinh không cần đơn vẫn phổ biến; kháng sinh bị sử dụng tràn lan trong nông nghiệp và chăn nuôi.

Trước thách thức này, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1121/QĐ-TTg ngày 25/9/2023 phê duyệt Chiến lược Quốc gia về phòng, chống kháng thuốc giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045.

Bên cạnh đó, ngày 12/11 vừa qua, Bộ Y tế tiếp tục ban hành Quyết định 3534/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch phòng chống kháng thuốc trong y tế giai đoạn 2026-2030, cụ thể hóa các mục tiêu chiến lược.

Trong bối cảnh này, Hội Dược sỹ bệnh viện Việt Nam thành lập theo Quyết định 564/QĐ-BNV ngày 5/6/2025 và có Điều lệ được phê duyệt tại Quyết định 1130/QĐ-BNV ngày 03/10/2025 giữ vai trò quan trọng trong việc tập hợp, phát huy trí tuệ đội ngũ dược sỹ bệnh viện trên phạm vi toàn quốc.

Với hàng ngàn hội viên đang công tác tại các cơ sở khám chữa bệnh, Hội có sứ mệnh đoàn kết, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hỗ trợ nâng cao chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Hưởng ứng Tuần lễ truyền thông phòng, chống kháng thuốc năm 2025, Hội Dược sỹ bệnh viện Việt Nam mong muốn phối hợp chặt chẽ với các Vụ, Cục và đơn vị của Bộ Y tế trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật chuyên môn tới hội viên và cộng đồng; đồng thời vận động hội viên gương mẫu thực hiện các quy định chuyên môn, đặc biệt là triển khai Chiến lược và Kế hoạch phòng chống kháng thuốc của Chính phủ và Bộ Y tế.

Hội đề nghị tăng cường chia sẻ thông tin, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm để nâng cao năng lực đội ngũ dược sỹ; phối hợp thúc đẩy nhận thức của cán bộ y tế và người dân về phòng chống kháng thuốc; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm phát huy thế mạnh của dược sỹ lâm sàng Việt Nam, đóng góp vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân và xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.

Ứng phó với gánh nặng các bệnh không lây nhiễm

Tại Việt Nam, bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân tử vong hàng đầu, vượt qua cả ung thư và các bệnh truyền nhiễm. Lối sống thiếu khoa học, hút thuốc lá, chế độ dinh dưỡng không hợp lý cùng tình trạng không tuân thủ điều trị bằng thuốc là những yếu tố làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch, dẫn đến các biến chứng nặng nề như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, nhồi máu cơ tim, suy tim, thậm chí tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

Thông tin được PGS-TS.Phạm Nguyễn Vinh, chuyên gia tim mạch chia sẻ trong buổi tư vấn trực tuyến “Nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, suy tim & các bệnh tim mạch nguy hiểm” vừa được tổ chức.

PGS.Vinh nhấn mạnh, bệnh tim mạch đã trở thành nguyên nhân tử vong hàng đầu ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Mỗi năm nước ta ghi nhận hơn 200.000 người tử vong vì bệnh tim mạch, chiếm 33% tổng số ca tử vong. Điều đáng lo ngại là bệnh ngày càng trẻ hóa khi ngày nhiều trường hợp chỉ mới ngoài 20 tuổi đã bị nhồi máu cơ tim, hoặc ở tuổi 30 đã phải đặt stent hay phẫu thuật bắc cầu mạch vành.

Theo chuyên gia, bệnh tim mạch gồm 7 nhóm chính gồm bệnh động mạch vành do xơ vữa; bệnh van tim do hậu thấp hoặc thoái hóa; tăng huyết áp; bệnh cơ tim mắc phải hoặc di truyền; rối loạn nhịp tim; bệnh tim bẩm sinh; và các bệnh tim thứ phát do đái tháo đường, bệnh phổi hoặc lupus ban đỏ.

Trong số này, nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, với hơn 95% trường hợp xuất phát từ xơ vữa động mạch khiến mạch máu nuôi tim bị tắc nghẽn. Nếu không được sơ cứu đúng cách và can thiệp kịp thời, bệnh nhân dễ gặp biến chứng nghiêm trọng như thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp, viêm màng ngoài tim, suy tim, sốc tim, thậm chí vỡ tim.

Có bốn yếu tố nguy cơ chính dẫn tới xơ vữa động mạch gồm: tăng huyết áp, đái tháo đường, hút thuốc lá và rối loạn lipid máu. Ngoài ra, rối loạn cholesterol di truyền hoặc dị dạng động mạch vành cũng có thể gây nhồi máu cơ tim.

Điều đáng mừng là bệnh hoàn toàn có thể phòng ngừa bằng lối sống lành mạnh: ăn uống khoa học, vận động thường xuyên, kiểm soát huyết áp, đường huyết, mỡ máu, thăm khám định kỳ và điều trị đúng các bệnh nền.

Việc tầm soát sớm giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Phụ nữ mang thai khoảng tháng thứ 5 nên được sàng lọc bất thường chuyển hóa để phòng ngừa nguy cơ tim mạch cho mẹ và thai nhi.

Trẻ em từ 3 tuổi cần xét nghiệm cholesterol nếu gia đình có tiền sử rối loạn mỡ máu hoặc bệnh mạch vành sớm. Người từ 20 tuổi trở lên nên xét nghiệm lipoprotein(a) tối thiểu một lần để phát hiện sớm nguy cơ di truyền gây bệnh mạch vành, ngay cả khi các chỉ số mỡ máu còn bình thường.

Theo PGS.Vinh, người bệnh có thể nhận biết bệnh tim mạch qua một số triệu chứng như tức ngực, mệt khi gắng sức, đau sau xương ức, khó thở, nhịp tim nhanh. Tuy nhiên, đây cũng có thể là dấu hiệu của các bệnh lý khác như bệnh phổi hoặc thiếu máu, do đó người bệnh nên chủ động thăm khám để được chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.

Các chuyên gia đều chung quan điểm cho rằng, tăng huyết áp, rối loạn nhịp và rối loạn mỡ máu là những bệnh lý phổ biến, có thể xuất hiện ở mọi đối tượng và đang có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt ở người béo phì, ít vận động, căng thẳng kéo dài, hút thuốc lá hoặc dinh dưỡng kém. Các bệnh van tim và bệnh cơ tim tuy ít gặp hơn nhưng có thể gây biến chứng nghiêm trọng như rối loạn nhịp, đột tử hoặc suy tim.

Thực tế ghi nhận nhiều bệnh nhân ở độ tuổi 30 đã mắc bệnh tim mạch nhưng chủ quan, chỉ đến bệnh viện khi triệu chứng nặng hoặc khi biến chứng đã xuất hiện. Do đó, các trường hợp có yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình mắc bệnh, thừa cân béo phì, lối sống ít vận động, stress kéo dài cần chủ động tầm soát sớm. Phụ nữ mãn kinh và nam giới trung niên cũng là những nhóm nguy cơ cao.

Suy tim là “điểm đến cuối cùng” của đa số bệnh tim mạch nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Suy tim được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn A (nguy cơ); giai đoạn B (có bệnh lý dẫn đến suy tim); giai đoạn C (xuất hiện triệu chứng mệt, giảm khả năng gắng sức, khó thở); và giai đoạn D, suy tim giai đoạn cuối hoặc kháng trị, với triệu chứng nặng nề ngay cả khi nghỉ ngơi và tuổi thọ giảm mạnh.

Nghẹt mũi kéo dài hơn 1 năm, phát hiện ung thư mũi

Tại Phòng khám Đa khoa Tâm Anh Quận 7, trường hợp ông Lăng, 58 tuổi, được phát hiện ung thư hốc mũi sau hơn một năm có triệu chứng nghẹt mũi. Trước đây, ông từng được chẩn đoán có khối u nhỏ trong mũi nhưng do không có triệu chứng rõ rệt, ông chưa tái khám định kỳ. Gần đây, tình trạng chảy máu mũi nhiều khiến ông đến khám tại Tâm Anh.

Ths.Trương Tấn Phát, Trưởng Đơn vị Tai Mũi Họng cho biết, khi thăm khám lâm sàng và nội soi, khối u lấp đầy hốc mũi trái, che kín cửa mũi sau và vùng hòm, đi kèm chảy máu. Kết quả chụp CT-Scan ghi nhận tổn thương choán chỗ xoang hàm trái, lan vào hốc mũi, xoang sàng, xoang trán, xoang bướm trái và vòm mũi họng hai bên, hủy xương clivus trái, tụ dịch khí chũm bào trái và theo dõi hạch góc hàm trái.

Qua đánh giá toàn diện, bác sỹ Phát nghi ngờ khối u ác tính và chỉ định sinh thiết. Kết quả giải phẫu mô bệnh học xác định khối u là ung thư hốc mũi dạng biểu mô tế bào vảy. Hội đồng chuyên khoa đã chỉ định phẫu thuật cắt khối u cùng các xương bị xâm lấn, đồng thời dựa trên kết quả mô bệnh học sẽ xác định hướng điều trị tiếp theo bằng hóa hoặc xạ trị.

Bác sỹ Phát nhấn mạnh, ung thư mũi thường được điều trị hiệu quả nhất bằng phẫu thuật nội soi cắt trọn khối u cùng mô xung quanh. Tiên lượng sống sau 5 năm của bệnh nhân phụ thuộc vào mức độ lan rộng của u: 82% khi u còn khu trú, 52% khi lan đến hạch lân cận và 42% khi đã di căn xa.

Các triệu chứng ban đầu của ung thư hốc mũi thường không đặc hiệu, dễ nhầm lẫn với viêm xoang hay polyp mũi, bao gồm nghẹt mũi, chảy máu mũi, giảm khứu giác. Do đó, chẩn đoán sớm đòi hỏi kết hợp khám lâm sàng, nội soi tai mũi họng, chụp MRI hoặc CT và sinh thiết.

Bên cạnh đó, phần lớn u hốc mũi là lành tính nhưng vẫn cần theo dõi định kỳ vì một số yếu tố nguy cơ như tiếp xúc hóa chất, bụi gỗ, khói thuốc, nhiễm virus HPV hay yếu tố di truyền có thể thúc đẩy quá trình ác tính hóa.

Bác sỹ Phát khuyến cáo, người dân nên khám định kỳ, phát hiện và loại bỏ sớm các khối u bất thường. Khi xuất hiện các triệu chứng bất thường như nghẹt mũi kéo dài, chảy máu, mất khứu giác, cần đi khám sớm để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, nâng cao cơ hội chữa khỏi bệnh.

Hai ngày đau hạ sườn phải, phát hiện viêm túi mật cấp do sỏi kẹt cổ túi mật

Chỉ trong vòng hai ngày xuất hiện các cơn đau vùng hạ sườn phải, kèm sốt cao và rét run, chị Đ.H.M (44 tuổi, Hà Nội) đã được gia đình đưa đến khám tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC. Qua thăm khám và các xét nghiệm cận lâm sàng, bác sỹ chẩn đoán chị bị viêm túi mật cấp do sỏi kẹt cổ túi mật, nghi ngờ hoại tử thành túi mật, một tình trạng nguy hiểm cần phẫu thuật cấp cứu.

Túi mật là cơ quan nhỏ nằm dưới gan, có chức năng chứa và cô đặc dịch mật, hỗ trợ tiêu hóa chất béo. Khi sỏi hình thành và di chuyển đến cổ túi mật, vị trí hẹp nối với ống dẫn mật khiến dòng chảy dịch mật bị tắc nghẽn. Sự ứ đọng kéo dài khiến thành túi mật viêm, phù nề, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, dẫn tới viêm túi mật cấp, thậm chí hoại tử hoặc thủng túi mật nếu không được xử trí kịp thời.

Chị M. là ví dụ điển hình. Ban đầu, chị có các triệu chứng đau vùng hạ sườn phải lan ra sau lưng, buồn nôn và sốt cao kèm rét run. Khi nhập viện, bác sỹ ghi nhận hội chứng nhiễm trùng nặng và chỉ định xét nghiệm máu, siêu âm ổ bụng, chụp MRI để tìm nguyên nhân.

Kết quả kiểm tra cho thấy túi mật dày thành không đều, giường túi mật phù nề, trong lòng có nhiều sỏi, viên lớn 14mm; vị trí gần cổ túi mật có sỏi kẹt 12x7mm.

Chụp MRI cho thấy túi mật dày 9mm, dịch mật tồn đọng, vùng đáy có nhiều sỏi 41x22mm; sỏi kẹt ở cổ túi mật 13x15mm; nghi ngờ hoại tử thành trước vùng đáy túi mật. Xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu 18,05 G/L, tỷ lệ bạch cầu trung tính 92,6%, CRP 163,85 mg/L, Procalcitonin 6580 ng/ml, cho thấy nhiễm trùng nặng. Từ các kết quả này, bệnh nhân được chẩn đoán viêm túi mật cấp do sỏi kẹt cổ túi mật, đe dọa tính mạng nếu không được xử lý kịp thời.

Ngay khi có kết quả chẩn đoán, ê-kíp bác sỹ của Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC đã hội chẩn và chỉ định phẫu thuật nội soi cắt túi mật cấp cứu nhằm loại bỏ ổ viêm. Nếu trì hoãn, bệnh nhân có thể gặp biến chứng nguy hiểm như thủng túi mật, viêm phúc mạc mật, nhiễm trùng huyết.

Trong quá trình phẫu thuật, bác sỹ ghi nhận túi mật dính xung quanh, thành dày, nhiều sỏi. Mẫu bệnh phẩm được gửi giải phẫu bệnh và xác nhận viêm túi mật hoại tử. Sau 7 ngày điều trị hậu phẫu, sức khỏe chị M. ổn định, ăn uống bình thường, vết mổ khô, và tái khám sau một tuần cho thấy phục hồi tốt, không còn khối bất thường.

Theo BSCKII Nguyễn Văn Thưởng, sỏi túi mật có thể âm thầm nhiều năm mà không gây triệu chứng. Tuy nhiên, khi sỏi kẹt cổ túi mật, biến chứng xảy ra nhanh và nguy hiểm.

Người dân cần cảnh giác và đi khám ngay khi xuất hiện các dấu hiệu sau: đau vùng hạ sườn phải lan ra vai hoặc sau lưng, đau tăng dần kèm sốt, rét run, buồn nôn hoặc nôn, vàng da, nước tiểu sẫm màu, hoặc tiền sử sỏi túi mật đang theo dõi nhưng xuất hiện đau hoặc sốt. Phát hiện sớm và điều trị kịp thời giúp người bệnh tránh biến chứng nặng nề, bảo toàn tính mạng và sức khỏe lâu dài.

Siết chặt việc kê đơn để ngăn ngừa tình trạng kháng thuốc kháng sinh
Tình trạng kháng thuốc kháng sinh đang trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng, được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cảnh báo là một trong 10 mối...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư