Thứ Bảy, Ngày 20 tháng 12 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 20/12: Chủ động bảo vệ sức khỏe từ khám sức khỏe định kỳ
D.Ngân - 20/12/2025 08:13
 
Khám sức khỏe định kỳ không chỉ là hoạt động chuyên môn y tế đơn thuần mà đang được xác định là một chính sách an sinh xã hội mang tính nền tảng, góp phần chuyển mạnh tư duy từ “chữa bệnh” sang “phòng bệnh”, từ quản lý sức khỏe thụ động sang chủ động, liên tục và xuyên suốt vòng đời.

Khám sức khỏe định kỳ giúp người dân quản lý sức khỏe chủ động, liên tục

Đây cũng được xem là giải pháp căn cơ nhằm giảm gánh nặng chi phí y tế, giảm quá tải bệnh viện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia trong bối cảnh già hóa dân số nhanh và gánh nặng bệnh không lây nhiễm ngày càng gia tăng.

Chủ trương tổ chức khám sức khỏe định kỳ toàn dân đã được Bộ Chính trị xác định rõ trong Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025.

GS-TS.Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế, Chủ tịch Hội đồng Y khoa Quốc gia đã nhấn mạnh nội dung này tại cuộc họp xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương về triển khai khám sức khỏe định kỳ cho người dân vừa diễn ra.

Theo Thứ trưởng Trần Văn Thuấn, chủ trương tổ chức khám sức khỏe định kỳ toàn dân đã được Bộ Chính trị xác định rõ trong Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025.

Theo đó, từ năm 2026, người dân sẽ được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm một lần và được lập sổ sức khỏe điện tử để quản lý sức khỏe theo vòng đời. Chính phủ cũng đã cụ thể hóa chủ trương này bằng Chương trình hành động tại Nghị quyết số 282/NQ-CP, giao Bộ Y tế chủ trì xây dựng và triển khai kế hoạch trên phạm vi toàn quốc.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, thời gian qua Bộ Y tế đã khẩn trương xây dựng các nội dung liên quan, gồm dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch triển khai; dự thảo Quyết định của Bộ Y tế ban hành hướng dẫn chuyên môn; đồng thời chuẩn bị các phương án về tổ chức thực hiện, nguồn lực, tài chínhchuyển đổi số. Đến nay, các dự thảo đã cơ bản hoàn thiện và đủ điều kiện để xin ý kiến rộng rãi.

Theo dự thảo Kế hoạch, chương trình khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc sẽ được triển khai cho 5 nhóm đối tượng, gồm người lao động theo quy định tại Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; lực lượng vũ trang; cán bộ thuộc hệ thống Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ các cấp; học sinh, sinh viên;

Và nhóm đối tượng khác không thuộc các nhóm trên như lao động tự do, nông dân, ngư dân, người buôn bán nhỏ, nội trợ, người cao tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội, người có công với cách mạng, người nghèo, cận nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.

Về lộ trình thực hiện, năm 2026 sẽ tiếp tục duy trì khám sức khỏe định kỳ cho các nhóm đối tượng đã được quy định trong Luật An toàn, vệ sinh lao động và các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho các nhóm đối tượng khác, ưu tiên người cao tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội, người có công với cách mạng, người nghèo, cận nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi bằng ngân sách nhà nước.

Từ năm 2027, chương trình sẽ được mở rộng, bảo đảm khám sức khỏe định kỳ ít nhất mỗi năm một lần cho các nhóm đối tượng theo kế hoạch. Căn cứ kết quả khám sức khỏe định kỳ, Bộ Y tế sẽ đề xuất kế hoạch khám sàng lọc chuyên sâu, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về nguồn kinh phí, người sử dụng lao động sẽ chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ cho người lao động thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.

Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chịu trách nhiệm kinh phí khám sức khỏe định kỳ cho các đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý. Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ các cấp bố trí ngân sách cho nhóm cán bộ thuộc diện quản lý.

UBND các tỉnh, thành phố sẽ bố trí ngân sách địa phương hoặc sử dụng nguồn hỗ trợ từ Trung ương để chi trả kinh phí khám sức khỏe cho các nhóm đối tượng còn lại. Ngoài ra, quỹ bảo hiểm y tế thanh toán các dịch vụ thuộc danh mục chi trả theo quy định của pháp luật; đồng thời huy động các nguồn xã hội hóa, viện trợ, tài trợ hợp pháp từ tổ chức, doanh nghiệp và các chương trình y tế.

Tại cuộc họp, nhiều ý kiến cho rằng việc triển khai khám sức khỏe định kỳ toàn dân sẽ gặp không ít khó khăn do số lượng người tham gia rất lớn, nhóm đối tượng đa dạng, đòi hỏi nguồn lực tài chính và nhân lực đáng kể.

Việc phân nhóm đối tượng vẫn còn nhiều cách tiếp cận khác nhau; nguồn ngân sách nhà nước dành cho hoạt động này còn hạn chế. Bên cạnh đó, địa bàn cư trú rộng, điều kiện đi lại khó khăn khiến một bộ phận người dân khó tiếp cận dịch vụ.

Năng lực của một số trạm y tế xã, trung tâm y tế và bệnh viện khu vực còn hạn chế về nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị, cần được đầu tư, nâng cấp. Hạ tầng công nghệ thông tin cũng chưa đồng bộ để thực hiện liên thông dữ liệu và quản lý sổ sức khỏe điện tử cho toàn dân.

Sau khi lắng nghe ý kiến đóng góp, Thứ trưởng Trần Văn Thuấn khẳng định chủ trương khám sức khỏe định kỳ, sàng lọc cho người dân tối thiểu mỗi năm một lần là đúng đắn, có cơ sở khoa học và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Nếu được triển khai hiệu quả, chính sách này sẽ giúp chăm sóc sức khỏe người dân từ sớm, từ xa và xuyên suốt vòng đời, đồng thời giảm tải cho các cơ sở khám chữa bệnh.

Theo Thứ trưởng, việc khám sức khỏe định kỳ và sàng lọc sớm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao thể trạng, cải thiện chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ.

Khi bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, người dân sẽ sống khỏe mạnh hơn, góp phần giảm gánh nặng bệnh tật cho gia đình và xã hội. Mục tiêu đặt ra là phấn đấu để toàn bộ người dân Việt Nam được khám sức khỏe hoặc khám sàng lọc tối thiểu một năm một lần.

Bộ Y tế cho biết sẽ tiếp tục tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành, địa phương để hoàn thiện kế hoạch, phân nhóm đối tượng phù hợp với quy định pháp luật và điều kiện thực tế.

Việc triển khai sẽ ưu tiên tại các cơ sở y tế tuyến cơ sở; trường hợp chưa đủ điều kiện, địa phương có thể huy động sự hỗ trợ từ tuyến trên nhằm bảo đảm chất lượng khám sức khỏe theo quy định. Kết quả khám và sàng lọc sẽ được cập nhật vào sổ sức khỏe điện tử, góp phần xây dựng dữ liệu y tế cá nhân đồng bộ, phục vụ hiệu quả công tác quản lý và chăm sóc sức khỏe người dân trong giai đoạn tới.

Tiến bộ trong tầm soát, can thiệp giúp giảm tử vong nhồi máu cơ tim, suy tim

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân gây tử vong số một trên toàn cầu, chiếm khoảng 31% tổng số ca tử vong mỗi năm, trong đó nhồi máu cơ tim giữ vai trò chủ yếu.

Tại Việt Nam, thống kê của Bộ Y tế cho thấy khoảng 25% người trưởng thành mắc các bệnh lý tim mạch, với gần 200.000 ca tử vong mỗi năm. Tim mạch hiện là nhóm bệnh gây tử vong cao nhất, vượt xa ung thư, căn bệnh vốn được xem là nỗi lo lớn của nhiều người.

PGS-TS.Phạm Nguyễn Vinh, Phó Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam cho biết, nhồi máu cơ tim xảy ra khi động mạch vành bị tắc nghẽn đột ngột, làm gián đoạn dòng máu nuôi tim. Mỗi phút trôi qua, hàng triệu tế bào cơ tim có thể bị hoại tử không hồi phục.

Nếu không được tái thông mạch kịp thời, vùng cơ tim tổn thương sẽ mất chức năng, dẫn đến tử vong hoặc suy tim mạn tính về sau. Đáng lưu ý, bệnh đang có xu hướng trẻ hóa do lối sống ít vận động, căng thẳng kéo dài, hút thuốc lá, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu và đái tháo đường.

Theo PGS.Vinh, nhồi máu cơ tim cấp và suy tim hiện là nguyên nhân nhập viện thường gặp nhất ở người trên 65 tuổi, đồng thời làm gia tăng tỷ lệ tử vong và chi phí chăm sóc y tế.

Tuy nhiên, khoảng 80% ca tử vong sớm do bệnh tim mạch có thể phòng ngừa nếu người dân duy trì lối sống lành mạnh, kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ và tầm soát định kỳ.

Một trong những bước tiến quan trọng giúp cải thiện tiên lượng bệnh là sự phát triển mạnh mẽ của các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tim mạch.

Siêu âm tim giúp đánh giá chức năng co bóp và van tim; điện tâm đồ phát hiện rối loạn nhịp; các xét nghiệm dấu ấn sinh học tim mạch hỗ trợ chẩn đoán tổn thương cơ tim sớm.

Đặc biệt, chụp CT mạch vành đa lát cắt và MRI tim cho phép quan sát chi tiết cấu trúc tim và mạch vành, phát hiện hẹp, xơ vữa hoặc tổn thương cơ tim ngay cả khi người bệnh chưa có triệu chứng rõ ràng, từ đó giúp bác sỹ đưa ra chiến lược can thiệp sớm, giảm đáng kể nguy cơ biến chứng và tử vong.

Song song đó, mô hình cấp cứu tim mạch khép kín với sự phối hợp chặt chẽ giữa khoa Cấp cứu, Hồi sức và Can thiệp tim mạch bằng nong bóng hoặc đặt stent mạch vành đã giúp nâng cao tỷ lệ cứu sống bệnh nhân nhồi máu cơ tim, đồng thời giảm nguy cơ tiến triển thành suy tim.

Điều trị bệnh tim mạch hiện nay theo hướng đa mô thức và cá thể hóa, kết hợp điều trị nội khoa tối ưu với kiểm soát các yếu tố nguy cơ, tư vấn thay đổi lối sống và tham gia chương trình phục hồi chức năng tim mạch.

Nhiều nhóm thuốc mới giúp cải thiện chức năng tim, giảm số lần nhập viện và kéo dài thời gian sống cho người bệnh. Bên cạnh đó, các kỹ thuật can thiệp hiện đại như sửa hoặc thay van tim qua da, nong bóng, đặt stent, phẫu thuật tim ít xâm lấn, cấy máy tạo nhịp, máy khử rung tự động… đã góp phần đáng kể trong việc giảm tỷ lệ tử vong và tái nhập viện.

PGS-TS.Phạm Nguyễn Vinh nhận định, nhồi máu cơ tim và suy tim không còn là “bản án tử” nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách. Những tiến bộ trong tầm soát, chẩn đoán và can thiệp tim mạch đang mở ra cơ hội sống khỏe mạnh và kéo dài tuổi thọ cho hàng triệu người bệnh.

Tuy nhiên, điều trị không kết thúc khi người bệnh xuất viện. Việc theo dõi lâu dài, quản lý yếu tố nguy cơ và thay đổi lối sống đóng vai trò then chốt trong phòng ngừa tái phát.

Các bác sỹ khuyến cáo người bệnh cần tuân thủ dùng thuốc, tái khám định kỳ, kiểm soát huyết áp, đường huyết và mỡ máu, đồng thời duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, vận động phù hợp.

Để phòng ngừa nhồi máu cơ tim, suy tim và các bệnh tim mạch khác, người dân nên duy trì cân nặng hợp lý, tập thể dục thường xuyên, không hút thuốc lá, hạn chế căng thẳng, ăn nhiều rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, giảm muối, đường, chất béo bão hòa và thực phẩm chế biến sẵn.

Khi xuất hiện các dấu hiệu nghi ngờ như mệt mỏi kéo dài, khó thở, đau ngực, đánh trống ngực, loạn nhịp tim hoặc ngất xỉu, cần đi khám sớm để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Nhập viện vì sởi biến chứng viêm phổi nặng

Anh Nguyễn Đăng (38 tuổi) phải nhập viện trong tình trạng mệt lả, sốt cao, khó thở và phát ban toàn thân. Các bác sỹ chẩn đoán anh mắc sởi biến chứng viêm phổi nặng, một trong những biến chứng nguy hiểm thường gặp của bệnh sởi ở người trưởng thành.

Theo ghi nhận tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, anh Đăng nhập viện sau 4 ngày sốt cao liên tục, kèm theo ho khan, đau rát họng, mệt mỏi và xuất hiện ban đỏ lan nhanh từ vùng đầu, mặt xuống ngực rồi toàn thân. Khi vào khoa Cấp cứu, bệnh nhân sốt 39-40 độ C, SpO₂ chỉ còn 91-93%, cơ thể mệt lả, khó thở, các nốt ban đỏ tiếp tục lan rộng.

Thạc sỹ, bác sỹ nội trú Nguyễn Thị Thúy Hậu, Khoa Nội Tổng hợp cho biết, bệnh nhân có biểu hiện viêm long đường hô hấp trên, phát ban điển hình của sởi và xuất hiện hạt Koplik đặc trưng trong niêm mạc miệng.

Kết quả chụp cắt lớp vi tính ghi nhận hình ảnh viêm phổi nặng. Đây là biến chứng phổ biến nhất và cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do sởi ở người lớn.

Theo bác sỹ Hậu, virus sởi gây tổn thương niêm mạc đường hô hấp, làm suy giảm miễn dịch tạm thời, tạo điều kiện cho các vi khuẩn như phế cầu, tụ cầu hoặc Haemophilus influenzae xâm nhập, gây viêm phổi bội nhiễm. Nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời, người bệnh có thể tiến triển suy hô hấp, thậm chí tử vong.

Bệnh nhân được điều trị tích cực bằng các biện pháp hỗ trợ hô hấp, truyền dịch, hạ sốt, bổ sung vitamin A và sử dụng kháng sinh phổ rộng (Ceftriaxone kết hợp Levofloxacin) nhằm kiểm soát nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn.

Sau 5 ngày điều trị nội trú, anh Đăng hết sốt, tự thở được khí phòng, các nốt ban mờ dần, tình trạng hô hấp cải thiện rõ rệt và sức khỏe ổn định. Bệnh nhân sau đó được xuất viện và tiếp tục theo dõi, điều trị ngoại trú.

Khai thác dịch tễ cho thấy, con trai anh Đăng (9 tuổi) là người khởi phát mắc sởi đầu tiên trong gia đình và được điều trị tại nhà. Trong quá trình chăm sóc, cả hai vợ chồng không thực hiện cách ly và sát khuẩn đầy đủ.

Trước khi anh Đăng nhập viện, vợ anh cũng đã phải điều trị viêm phổi do sởi tại một bệnh viện khác. Theo bác sỹ Hậu, cả hai vợ chồng đều chưa từng tiêm vắc-xin sởi nên không có miễn dịch bảo vệ, dẫn đến nguy cơ lây nhiễm cao và diễn tiến bệnh nặng.

Bác sỹ Hậu cho biết thêm, tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, số ca mắc sởi ở người trưởng thành, đặc biệt là nhóm chưa tiêm vắc-xin, đang có xu hướng gia tăng.

Năm 2025, số ca sởi ở người lớn tăng khoảng 25% so với hai năm trước. Đáng lo ngại, nhiều người vẫn chủ quan cho rằng sởi chỉ là bệnh của trẻ em. Thực tế, ở người lớn, bệnh thường diễn tiến nặng hơn, dễ gặp biến chứng nguy hiểm.

Nhiều trường hợp người lớn nhập viện với biểu hiện không điển hình, dễ nhầm lẫn với cảm cúm hoặc dị ứng da, nên đến viện muộn. Khi đó, bệnh đã tiến triển thành viêm phổi, suy hô hấp và phải điều trị tích cực.

Bác sỹ khuyến cáo khi có các triệu chứng như sốt, ho, phát ban, đặc biệt sau khi tiếp xúc với người nghi mắc sởi, cần đến cơ sở y tế chuyên khoa để được xét nghiệm và chẩn đoán chính xác. Người bệnh nghi ngờ sởi cần được cách ly để hạn chế lây lan, người chăm sóc nên đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên và giữ không gian sống thông thoáng.

Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus sởi gây ra, lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và được xếp vào nhóm bệnh có khả năng lây nhiễm cao nhất.

Giai đoạn đầu bệnh thường có biểu hiện giống cảm cúm như sốt cao, ho khan, sổ mũi, đau họng, viêm kết mạc, khiến nhiều người dễ chủ quan. Sau 3-5 ngày, ban đỏ đặc trưng xuất hiện, lan dần từ mặt xuống thân mình và tứ chi.

Khi miễn dịch cộng đồng suy giảm, virus sởi dễ dàng quay trở lại và gây dịch. Ở người trưởng thành, đặc biệt là những người chưa tiêm phòng hoặc tiêm chưa đủ mũi, bệnh có nguy cơ diễn tiến nặng, gây các biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm gan, viêm não, màng não và suy hô hấp cấp. Trong đó, viêm phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến sởi.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ cần tỷ lệ tiêm chủng sởi giảm xuống dưới 95% dân số, nguy cơ bùng phát dịch sẽ tăng mạnh.

Những người sinh trước khi chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai hoặc không nhớ rõ lịch sử tiêm vắc-xin cần chủ động tiêm bổ sung để bảo vệ bản thân và cộng đồng.

Bộ Y tế cho biết, từ đầu năm đến nay, cả nước đã ghi nhận hơn 54.000 ca nghi sởi tại tất cả các địa phương. Nguyên nhân bùng phát sởi được xác định do bệnh bước vào chu kỳ dịch khoảng 5 năm một lần, trong khi tiến độ tiêm vắc-xin chậm hơn tốc độ lây lan của virus. Sởi thường gia tăng vào mùa Đông - Xuân.

Chia sẻ về vắc-xin phòng sởi, bác sỹ Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống Tiêm chủng VNVC cho biết, hiện Việt Nam có các loại vắc-xin phòng sởi đơn và vắc-xin phối hợp.

Vắc-xin có thể tiêm cho trẻ từ 9 tháng hoặc 12 tháng tuổi. Với người lớn, hiện có các loại vắc-xin dịch vụ gồm vắc-xin sởi đơn, vắc-xin phối hợp 3 trong 1 phòng sởi - quai bị - rubella và vắc-xin 4 trong 1 phòng sởi - quai bị - rubella - thủy đậu. Người chưa tiêm hoặc không nhớ tiền sử tiêm chủng cần tiêm đủ ít nhất hai mũi, cách nhau một tháng.

Phụ nữ nên hoàn thành tiêm đủ hai mũi vắc-xin sởi trước khi mang thai ít nhất ba tháng để bảo vệ bản thân và truyền kháng thể thụ động cho con trong những tháng đầu đời. Tiêm đủ vắc-xin sởi có hiệu quả phòng bệnh lên tới 98%.

Người có bệnh nền đang điều trị ổn định, không suy giảm miễn dịch vẫn có thể tiêm vắc-xin sau khi được bác sỹ tư vấn. Các chuyên gia khuyến cáo người dân nên chủ động đến cơ sở tiêm chủng để được đánh giá tiền sử bệnh, dị ứng, thuốc đang sử dụng và lựa chọn loại vắc-xin phù hợp, góp phần phòng ngừa sởi và hạn chế nguy cơ bùng phát dịch trong cộng đồng.

Người dân sẽ được khám sức khỏe định kỳ miễn phí 1 lần mỗi năm
Theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội, từ năm 2026, người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm 1...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư