Thứ Tư, Ngày 03 tháng 09 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 3/9: Hội chứng lối thoát lồng ngực hiếm gặp đang bị bỏ sót trong chẩn đoán
D.Ngân - 03/09/2025 10:16
 
Các nhóm nghề có nguy cơ cao mắc bệnh lối thoát lồng ngực bao gồm vận động viên, nhạc công, thợ làm tóc, nhân viên văn phòng, công nhân dây chuyền, giáo viên... Bệnh thường xuất hiện trong độ tuổi 20-50, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn do cấu trúc cơ thể và đặc điểm nghề nghiệp.

Hội chứng lối thoát lồng ngực hiếm gặp đang bị bỏ sót trong chẩn đoán

Chị Hiền (42 tuổi, TP.HCM) bị tê tay phải trong nhiều năm và từng được chẩn đoán thoái hóa cột sống cổ. Dù đã uống thuốc theo toa từ nhiều cơ sở y tế, tình trạng không cải thiện mà ngày càng trở nặng. Cánh tay phải không chỉ tê yếu, đau nhức mà còn bắt đầu teo cơ, giảm khả năng cử động đáng kể, ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày.

Ảnh minh họa.

Khi đến một phòng khám tư để siêu âm, bác sỹ phát hiện đám rối thần kinh cánh tay phải của chị bị cơ bậc thang chèn ép, dấu hiệu điển hình của hội chứng lối thoát lồng ngực (Thoracic Outlet Syndrome - TOS). Chị Hiền sau đó được chuyển đến viện để tiếp tục điều trị chuyên sâu.

TS.Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực - Mạch máu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, TOS là một hội chứng ít gặp, xuất phát từ bất thường giải phẫu bẩm sinh.

Ở tuổi trẻ, các cơ còn mềm mại nên tình trạng chèn ép chưa biểu hiện rõ. Tuy nhiên, theo thời gian, cơ vùng cổ, vai trở nên xơ cứng, thoái hóa, làm lộ rõ triệu chứng, đặc biệt ở người lao động tay chân hoặc phải vận động vai lặp lại nhiều lần.

Về giải phẫu, lối thoát lồng ngực là không gian từ hố thượng đòn đến hố nách, nơi các mạch máu và dây thần kinh đi qua giữa xương đòn, xương sườn trên và cơ vùng cổ - vai. Khi những cấu trúc này bị chèn ép, người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng như đau, tê, yếu vai - tay, ngứa ran đầu ngón, teo cơ vùng bàn tay, thậm chí mất cảm giác hoặc cử động.

Vì triệu chứng khá giống các bệnh lý thần kinh và cơ xương khớp thường gặp như thoái hóa cột sống cổ hay hội chứng ống cổ tay, nhiều người dễ bị chẩn đoán nhầm, dẫn đến điều trị sai hướng trong thời gian dài. Trường hợp của chị Hiền là một ví dụ điển hình.

Hội chứng lối thoát lồng ngực được chia làm ba loại: thần kinh (nTOS, chiếm 95%), tĩnh mạch (vTOS - 3-5%) và động mạch (aTOS, 1-2%). Trong đó, nTOS là loại phổ biến nhất, xảy ra khi đám rối thần kinh cánh tay - mạng lưới thần kinh điều khiển vận động và cảm giác của vai, cánh tay, bàn tay bị chèn ép.

Sau khi được chẩn đoán đúng, chị Hiền được chỉ định phẫu thuật giải phóng vùng chèn ép. Các bác sỹ thực hiện rạch da khoảng 5 cm trên hõm xương đòn, bóc tách mô và cơ xung quanh để bộc lộ bó mạch dưới đòn cùng các dây thần kinh, sau đó cắt cơ bậc thang trước, nguyên nhân chính gây chèn ép. Ca mổ diễn ra trong khoảng hai giờ và thành công tốt đẹp.

Chỉ một ngày sau phẫu thuật, chị Hiền hết hoàn toàn cảm giác tê tay, phục hồi vận động bình thường và được hướng dẫn tập vật lý trị liệu để tăng cường chức năng bàn tay. Sau ba ngày, chị xuất viện và tiếp tục tái khám, tập luyện định kỳ theo chỉ định.

TS.Nguyễn Anh Dũng cho biết, ngoài nguyên nhân bẩm sinh, hội chứng TOS còn có thể do các yếu tố như tư thế xấu kéo dài (cúi đầu, rũ vai), chấn thương vùng vai, cổ, làm việc trong tư thế lặp lại nhiều lần, mang vác vật nặng thường xuyên hoặc béo phì gây áp lực lên hệ cơ, mạch máu.

Các nhóm nghề có nguy cơ cao mắc bệnh bao gồm vận động viên, nhạc công, thợ làm tóc, nhân viên văn phòng, công nhân dây chuyền, giáo viên... Bệnh thường xuất hiện trong độ tuổi 20-50, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn do cấu trúc cơ thể và đặc điểm nghề nghiệp.

Để phòng ngừa hội chứng lối thoát lồng ngực, bác sỹ khuyến cáo người dân nên duy trì tư thế tốt khi ngồi và làm việc (giữ lưng thẳng, vai mở, đầu không cúi lâu), thường xuyên nghỉ giải lao để vận động giãn cơ, tránh mang vác nặng trên vai, duy trì cân nặng hợp lý và tập luyện các bài thể dục nhẹ nhàng như yoga, thiền, hít thở sâu.

Việc nhận biết sớm triệu chứng và khám đúng chuyên khoa có vai trò quan trọng trong điều trị hiệu quả hội chứng này, tránh được những biến chứng thần kinh, mạch máu nghiêm trọng và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

Khàn tiếng kéo dài do u xơ dây thanh quản

Khàn giọng, đau rát họng kéo dài nhiều tháng, chị Th. (43 tuổi, giáo viên tại TP.HCM) đi khám và được phát hiện có hạt xơ dây thanh hai bên, nguyên nhân khiến giọng nói ngày càng suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và công việc.

Là giáo viên trung học, chị Th. sử dụng giọng nói liên tục suốt 7-8 tiếng mỗi ngày. Trong nhiều năm, chị thường xuyên bị viêm họng, khàn giọng, đôi khi mất tiếng. Có thời điểm, bác sỹ chẩn đoán chị bị trào ngược dạ dày - thực quản.

Tuy nhiên, hai tháng gần đây, tình trạng khàn tiếng trở nên nghiêm trọng hơn, kèm theo cảm giác đau rát họng, hụt hơi, khó phát âm rõ, vướng nghẹn khi nói chuyện. Lo lắng vì giọng nói ngày càng yếu và có lúc gần như mất tiếng, chị đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM.

Tại đây, ThS.BS.CKII Trần Thị Thúy Hằng, Trưởng khoa Tai Mũi Họng, Trung tâm Tai Mũi Họng, đã thực hiện nội soi tai - mũi - họng cho bệnh nhân. Kết quả ghi nhận mũi khe giữa xuất tiết dịch, vòm họng đọng dịch, họng sung huyết, hai dây thanh phù nề, sụn phễu sung huyết và xuất hiện tổn thương dạng hạt ở cả hai bên dây thanh nghi ngờ hạt xơ dây thanh.

Bác sỹ chẩn đoán chị Th. bị viêm họng - thanh quản sung huyết, viêm mũi xuất tiết và theo dõi hạt dây thanh. Chị được kê thuốc điều trị nội khoa, đồng thời được hướng dẫn hạn chế sử dụng giọng nói, không nói lớn, không gắng sức khi phát âm, súc họng bằng nước muối sinh lý, uống nhiều nước, tránh tiếp xúc với khói bụi và hóa chất.

Tuy nhiên, vì tính chất công việc là giáo viên đứng lớp, chị Th. vẫn phải sử dụng giọng nói hằng ngày. Sau 1, 2 và 4 tuần tái khám, kết quả nội soi cho thấy các hạt xơ dây thanh kém đáp ứng với điều trị nội khoa và trị liệu giọng nói.

Việc này không chỉ khiến giọng nói ngày càng suy yếu mà còn làm giảm nghiêm trọng chất lượng sống của người bệnh. Bác sỹ quyết định chỉ định phẫu thuật nội soi treo thanh quản để cắt bỏ hạt xơ dây thanh hai bên.

Trong quá trình phẫu thuật, bác sỹ sử dụng ống soi cứng kết hợp hệ thống treo thanh quản giúp quan sát rõ toàn bộ vùng dây thanh trên màn hình.

Sau đó, các hạt xơ ở hai bên dây thanh được loại bỏ bằng dụng cụ vi phẫu chuyên dụng, đồng thời tiến hành cầm máu tại chỗ. Phẫu thuật diễn ra nhanh chóng, chỉ khoảng 15 phút và không cần khâu vết thương. Phương pháp này có ưu điểm ít xâm lấn, phục hồi nhanh, hạn chế sẹo xơ, giúp bảo tồn tối đa chức năng giọng nói.

Sau mổ, chị Th. ổn định sức khỏe, được xuất viện sau một ngày. Bác sỹ hướng dẫn chị tuyệt đối hạn chế nói trong ba ngày đầu, không nói to, không hắng giọng, tránh khói bụi, giữ ẩm cổ họng và uống nhiều nước. Tái khám sau một tuần, dây thanh lành tốt, giọng nói hồi phục rõ rệt. Hai tuần sau phẫu thuật, các triệu chứng khàn tiếng, đau họng gần như biến mất hoàn toàn.

Theo bác sỹ Hằng, u xơ dây thanh hay hạt xơ dây thanh là tình trạng xuất hiện các mô xơ nhỏ nằm đối xứng ở đoạn giữa của hai bên dây thanh.

Những hạt này thường hình thành do dây thanh phải hoạt động quá mức trong thời gian dài, khiến lớp niêm mạc bị tổn thương, mất đàn hồi. Lâu ngày, các mô tăng sinh dẫn đến sự hình thành hạt xơ. Bệnh thường gặp ở những người sử dụng giọng nói với cường độ cao như ca sỹ, giáo viên, MC, streamer…

Một số yếu tố khác cũng góp phần làm tăng nguy cơ hình thành u xơ dây thanh như viêm họng - viêm thanh quản kéo dài, trào ngược họng - thanh quản, trào ngược dạ dày thực quản mạn tính…

Triệu chứng thường gặp là khàn tiếng kéo dài, giọng nói yếu, hụt hơi, khó nói chuyện, cảm giác vướng hoặc đau ở cổ họng. Nếu không điều trị kịp thời, người bệnh có thể gặp biến chứng như viêm thanh quản cấp tính, xuất huyết dây thanh, thậm chí khó thở.

Việc điều trị u xơ dây thanh tùy thuộc vào mức độ bệnh. Trong giai đoạn sớm, bác sỹ sẽ ưu tiên điều trị nội khoa kết hợp thay đổi thói quen sử dụng giọng nói. Nếu bệnh không đáp ứng, bác sỹ sẽ chỉ định phẫu thuật loại bỏ hạt xơ để khôi phục chức năng phát âm.

Để phòng ngừa u xơ dây thanh, người dân, đặc biệt là những người phải nói nhiều nên hạn chế nói to, không nói liên tục trong thời gian dài, tránh nói khi mệt hoặc trong môi trường ồn ào. Nên sử dụng thiết bị hỗ trợ giọng nói như micro, loa để giảm áp lực lên dây thanh. Bên cạnh đó, cần tránh bia rượu, không hút thuốc lá, giữ vệ sinh mũi họng, đeo khẩu trang khi ra đường và làm việc trong môi trường ô nhiễm.

Duy trì lối sống lành mạnh, ăn uống đủ chất, uống nhiều nước, tập thể dục thường xuyên để tăng cường sức đề kháng. Đặc biệt, cần điều trị triệt để các bệnh lý liên quan như trào ngược dạ dày - thực quản, viêm họng, viêm xoang... để bảo vệ sức khỏe đường hô hấp và duy trì giọng nói khỏe mạnh.

Béo phì ở trẻ em tăng nhanh đáng báo động

Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì đang tăng với tốc độ báo động, trong đó tỷ lệ tăng trưởng béo phì (BMI ≥ 30) hàng năm lên tới 9,8%. Ước tính, cứ 2 trẻ thì có 1 trẻ thừa cân hoặc béo phì, trong đó bé trai có nguy cơ cao hơn bé gái.

Thông tin được đưa ra tại Hội thảo khoa học “Điều trị đa phương thức về béo phì” vừa được tổ chức với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực nội tiết, nhi khoa, dinh dưỡng.

Các chuyên gia nhấn mạnh, tình trạng béo phì ở trẻ em không chỉ gia tăng ở Việt Nam mà đang trở thành vấn đề sức khỏe nghiêm trọng toàn cầu.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp béo phì trẻ em vào nhóm thách thức sức khỏe cộng đồng lớn nhất thế kỷ 21. Trẻ bị béo phì từ sớm có nguy cơ cao tiếp tục béo phì khi trưởng thành và sớm mắc các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường type 2, bệnh tim mạch, gan nhiễm mỡ, rối loạn tâm lý...

PGS-TS.Vũ Huy Trụ, chuyên khoa nhi khoa cho biết, trẻ vị thành niên bị béo phì có nguy cơ tiền đái tháo đường cao gấp 2,6 lần; có đến 60% bị hội chứng ngưng thở khi ngủ. Khoảng 70% trẻ từ 5-17 tuổi bị thừa cân có ít nhất một yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch trong tương lai.

Ngoài ảnh hưởng thể chất, trẻ béo phì còn dễ gặp rối loạn tâm lý do mặc cảm ngoại hình hoặc bị kỳ thị. Vì vậy, điều trị béo phì không thể chỉ đơn thuần là giảm cân mà cần cá thể hóa, xác định đúng nguyên nhân, từ đó lựa chọn giải pháp phù hợp.

PGS Trụ cho biết, điều trị béo phì cần áp dụng nguyên tắc “kiềng ba chân” gồm: chế độ ăn hợp lý, vận động thể chất thường xuyên và sử dụng thuốc (áp dụng cho trẻ từ 12 tuổi trở lên). Bác sỹ cần phối hợp chặt chẽ với gia đình để duy trì thay đổi hành vi và thói quen sống của trẻ trong dài hạn.

Phân tích nguyên nhân gây béo phì ở trẻ, Ths.Võ Đình Bảo Văn, Khoa Nội tiết - Đái tháo đường cho rằng, béo phì ở trẻ em không đơn giản chỉ là do ăn nhiều, lười vận động. Nguyên nhân có thể đến từ yếu tố di truyền, rối loạn nội tiết, tác dụng phụ của thuốc, yếu tố tâm lý hoặc môi trường sống ít vận động, ăn uống dư thừa năng lượng.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nếu cha hoặc mẹ bị béo phì thì nguy cơ con bị béo phì tăng rõ rệt. Trẻ sinh ra trong gia đình có bố mẹ bình thường thì tỷ lệ béo phì khoảng 9%; nếu một trong hai người béo phì, tỷ lệ tăng lên 41-50%; nếu cả hai cùng béo phì, nguy cơ của trẻ lên đến 66-80%.

“Việc can thiệp cần bắt đầu sớm, ngay từ khi mang thai. Quan trọng hơn là thay đổi hành vi và thói quen sinh hoạt trong gia đình, vì đây là chìa khóa bền vững giúp phòng ngừa béo phì và các bệnh lý mạn tính trong tương lai”, bác sỹ Văn nhấn mạnh.

BS.CKI Phan Thị Thùy Dung, Khoa Nội tiết - Đái tháo đường cho biết, việc điều trị béo phì ở trẻ dưới 18 tuổi cần hết sức thận trọng vì đây là đối tượng đang trong giai đoạn tăng trưởng. Do đó, mục tiêu không phải là ép cân mà là duy trì cân nặng phù hợp với tốc độ phát triển của cơ thể, thông qua thay đổi lối sống.

Bác sỹ Dung cho biết, hiện nay, thuốc điều trị béo phì mới được cấp phép cho trẻ từ 12 tuổi trở lên. Trong đó, nhóm thuốc đồng vận GLP-1 RA đã được chứng minh có hiệu quả cao, an toàn qua các thử nghiệm lâm sàng quốc tế, và đang được sử dụng có kiểm soát trong một số trường hợp tại Việt Nam.

Tuy nhiên, theo TS.Lâm Văn Hoàng, Trưởng khoa Nội tiết - Đái tháo đường, điều trị béo phì ở trẻ khó khăn hơn người lớn, do liên quan đến hành vi và tâm lý. “Một điểm thiếu sót trong các phác đồ điều trị hiện nay là chưa chú trọng đúng mức đến vai trò của tư vấn tâm lý. Việc dùng thuốc nếu cần thiết cũng phải thận trọng và theo dõi sát sao”, ông chia sẻ.

Các chuyên gia thống nhất rằng, điều trị và phòng ngừa béo phì ở trẻ cần là ưu tiên y tế hàng đầu. Quan trọng nhất vẫn là sự thay đổi lối sống của cả gia đình, xây dựng môi trường sống lành mạnh, hỗ trợ trẻ vận động, ăn uống hợp lý và kiểm soát tâm lý. Can thiệp từ sớm không chỉ giúp trẻ khỏe mạnh hơn trong hiện tại mà còn giảm đáng kể nguy cơ bệnh lý mạn tính sau này.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư