Thứ Hai, Ngày 10 tháng 03 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 10/3: Liên tiếp cảnh báo tình trạng lọc máu phòng đột quỵ, nhồi máu cơ tim
D.Ngân - 10/03/2025 12:07
 
Kỹ thuật lọc máu không thể thay đổi các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Việc lọc mỡ trong máu chỉ giúp giảm bớt một phần mỡ thừa, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ đột quỵ.

Trong thời gian gần đây, trào lưu “lọc máu siêu công nghệ” đang nổi lên với lời quảng cáo có thể ngăn ngừa đột quỵ, nhồi máu cơ tim và các bệnh lý tim mạch khác. Tuy nhiên, phương pháp này tiềm ẩn nhiều nguy cơ và không có cơ sở khoa học vững chắc, có thể khiến người dân tiền mất tật mang.

Nguy hiểm khôn lường khi lọc máu phòng đột quỵ, nhồi máu cơ tim

Một số bài viết trên mạng xã hội quảng bá dịch vụ lọc máu với chi phí lên đến hàng chục triệu đồng, hứa hẹn loại bỏ mỡ máu, chất gây viêm, kim loại nặng và vi khuẩn, từ đó phòng ngừa các bệnh như tiểu đường, suy thận, đột quỵ, tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim.

Tại Việt Nam, đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, với hơn 200.000 ca mỗi năm. 

Phương pháp lọc máu này lấy máu từ tĩnh mạch của người bệnh, sau đó lọc qua hai bộ lọc để tách huyết tương và loại bỏ tạp chất. Khi huyết tương sạch, nó sẽ được kết hợp lại với máu và đưa vào cơ thể.

Tuy nhiên, theo PGS-TS.Phạm Nguyễn Vinh, Phó Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, hiện chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh lọc máu có thể phòng ngừa đột quỵ hay nhồi máu cơ tim. Nguyên nhân chính gây ra nhồi máu cơ tim là xơ vữa động mạch, được tích tụ qua nhiều năm do các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, hút thuốc lá, rối loạn lipid máu, v.v.

Xơ vữa động mạch là quá trình tự nhiên, trong đó các mảng bám từ chất béo, cholesterol và canxi tích tụ trong thành động mạch. Quá trình này bắt đầu từ khi chúng ta còn trẻ và kéo dài đến tuổi trưởng thành.

Điều quan trọng là lọc máu không thể phân biệt được các loại cholesterol, do đó, có thể làm giảm cả cholesterol tốt (HDL), vốn có tác dụng bảo vệ tim mạch. Hơn nữa, việc lọc máu cũng có thể làm mất đi albumin – một loại protein quan trọng trong máu và gây xáo trộn các chất điện giải, ảnh hưởng đến sức khỏe.

TS.Nguyễn Thị Minh Đức, chuyên khoa thần kinh, nhấn mạnh rằng kỹ thuật lọc máu không thể thay đổi các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Việc lọc mỡ trong máu chỉ giúp giảm bớt một phần mỡ thừa, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ đột quỵ.

Kỹ thuật lọc máu hiện chủ yếu được chỉ định trong điều trị bệnh thận mạn tính giai đoạn 5 và một số bệnh lý khác như viêm tụy, bệnh về máu, gan, nhiễm trùng huyết nặng.

Lọc máu chỉ được thực hiện khi các phương pháp điều trị khác không hiệu quả, và phải được thực hiện ở các cơ sở y tế chuyên môn với thiết bị hiện đại. Điều này đòi hỏi bác sỹ phải theo dõi chặt chẽ để đảm bảo quy trình lọc máu an toàn, tránh nhiễm trùng, tai biến hay các biến chứng nguy hiểm khác.

Lọc máu sai chỉ định hoặc thực hiện ở những cơ sở không đảm bảo an toàn có thể gây ra những phản ứng nghiêm trọng như sốc phản vệ, nhiễm trùng viêm gan, và thậm chí là nguy hiểm đến tính mạng nếu không được can thiệp kịp thời.

Để phòng ngừa đột quỵ và nhồi máu cơ tim, các chuyên gia khuyến cáo người dân cần duy trì một lối sống lành mạnh, chế độ ăn uống khoa học và kiểm tra sức khỏe định kỳ. Cụ thể, nên hạn chế mỡ bão hòa, sử dụng mỡ lành mạnh, tăng cường luyện tập thể dục và không hút thuốc, giảm tiêu thụ rượu bia.

Đặc biệt, những người có tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch, đột quỵ hoặc có các yếu tố nguy cơ như mỡ máu cao, tiểu đường, huyết áp cao nên chủ động kiểm tra sức khỏe thường xuyên và thực hiện các xét nghiệm tầm soát nguy cơ đột quỵ, nhồi máu cơ tim.

Tại Việt Nam, đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, với hơn 200.000 ca mỗi năm. Tầm soát sức khỏe định kỳ giúp phát hiện sớm các nguy cơ này, từ đó có biện pháp điều trị kịp thời. Các phương pháp như siêu âm tim, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ có thể giúp chẩn đoán và đưa ra phương án điều trị hiệu quả.

Tưởng điều trị khỏi viêm gan, người bệnh bàng hoàng phát hiện ung thư

Anh Dũng (47 tuổi, Hà Nội) mắc viêm gan virus C mạn tính. Sau một lần xét nghiệm không phát hiện virus trong cơ thể, anh đã ngừng theo dõi định kỳ và không ngờ rằng, chỉ một năm sau, anh đã được chẩn đoán mắc ung thư gan.

Trước đó, anh Dũng đi khám tại bệnh viện vì men gan tăng cao và tiểu cầu giảm. Các bác sỹ đã chẩn đoán anh mắc xơ gan giai đoạn sớm, viêm gan virus C mạn tính và đái tháo đường. Kết quả chụp cắt lớp vi tính ổ bụng cho thấy các nốt tổn thương dưới 1 cm trong nhu mô gan. Sau khi kê thuốc điều trị, anh Dũng được hẹn tái khám sau 2 tháng, nhưng anh không quay lại.

“Sau khi sử dụng thuốc điều trị khoảng 6 tháng, tôi kiểm tra tại một phòng khám gần nhà và xét nghiệm không phát hiện virus trong máu. Tôi nghĩ bệnh đã khỏi nên quyết định không tái khám nữa,” anh Dũng chia sẻ.

Tuy nhiên, vào đầu năm 2025, sau một năm gián đoạn khám định kỳ, anh Dũng quay lại kiểm tra sức khỏe. Mặc dù kết quả xét nghiệm cho thấy virus viêm gan C đã giảm dưới ngưỡng phát hiện, nhưng chỉ số AFP và PIVKA, đánh giá nguy cơ ung thư gan, lại tăng cao bất thường.

Chụp cộng hưởng từ phát hiện nốt tổn thương trong gan, với kích thước u lớn nhất khoảng 17x14mm, nghi ngờ ung thư. Sinh thiết sau đó khẳng định anh Dũng mắc ung thư biểu mô tế bào gan biệt hóa vừa trên nền gan xơ.

TS.Vũ Trường Khanh, chuyên khoa tiêu hóa cho biết trường hợp của anh Dũng là ví dụ điển hình cho thấy tầm quan trọng của việc khám và theo dõi định kỳ, đặc biệt đối với những người có yếu tố nguy cơ.

Anh Dũng may mắn khi ung thư gan được phát hiện ở giai đoạn sớm, với khối u kích thước nhỏ, giúp tiên lượng khả quan. Sau khi được tư vấn, anh Dũng đã chọn phương pháp đốt sóng cao tần (RFA) để điều trị. Qua các lần tái khám, các nốt tổn thương không ngấm thuốc, khối u có dấu hiệu thoái triển. Các chỉ số AFP và PIVKA cũng giảm dần sau mỗi đợt xét nghiệm.

Sau 24 tuần điều trị viêm gan C, anh Dũng đã đạt được đáp ứng virus bền vững (SVR 24), được coi là đã chữa khỏi nhiễm viêm gan C. Hiện tại, sức khỏe của anh Dũng ổn định và tiếp tục được theo dõi điều trị theo chỉ định của bác sỹ.

Viêm gan virus C (HCV) là bệnh gan do virus viêm gan C gây ra, thường không có triệu chứng rõ ràng trong giai đoạn đầu. Nếu không được điều trị, bệnh có thể tiến triển thành xơ gan, suy gan hoặc ung thư gan. Hiện nay, nhờ các loại thuốc kháng virus tác động trực tiếp, tỷ lệ điều trị khỏi viêm gan C có thể đạt trên 95%, với thời gian điều trị từ 12 đến 24 tuần tùy theo mức độ xơ gan của bệnh nhân.

Tuy nhiên, sau khi điều trị, mặc dù virus viêm gan C có thể bị loại bỏ khỏi cơ thể, nhưng tổn thương gan vẫn có thể tồn tại, đặc biệt là khi đã có xơ gan trước đó. Do đó, việc theo dõi định kỳ là rất quan trọng để kiểm soát nguy cơ tái phát hoặc các biến chứng liên quan đến gan.

Để theo dõi tình trạng gan sau khi điều trị viêm gan C, các bác sỹ sẽ sử dụng các xét nghiệm để phát hiện virus, đo tải lượng virus và đánh giá chức năng gan.

Ngoài ra, siêu âm gan và xét nghiệm AFP, PIVKA cũng được thực hiện để sàng lọc hoặc theo dõi ung thư gan. Chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ cũng sẽ được chỉ định nếu cần thiết, tùy vào tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân.

4 triệu ca tử vong mỗi năm vì béo phì

Béo phì có thể gây ra khoảng 4 triệu ca tử vong mỗi năm do liên quan đến hơn 200 bệnh nguy hiểm, nhưng đáng tiếc là nhiều người vẫn thờ ơ và thiếu động lực để thay đổi.

Tại buổi chia sẻ khoa học định kỳ của Viện Nghiên cứu TAMRI, TS.Lâm Văn Hoàng, Giám đốc Trung tâm cho biết, theo nghiên cứu GBD (Nghiên cứu Gánh nặng Bệnh tật Toàn cầu, hợp tác với hơn 12.000 nhà nghiên cứu từ hơn 160 quốc gia), nguy cơ tử vong do béo phì đứng thứ 6 trên toàn cầu với 3,71 triệu ca tử vong mỗi năm.

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người chưa nhận thức được béo phì là một bệnh lý. Họ chỉ điều trị các triệu chứng của những bệnh khác mà béo phì gây ra, mà không giải quyết nguyên nhân gốc rễ là thừa cân.

Một ví dụ điển hình là anh V.M.H. (30 tuổi, Bình Dương), cao 1m68, nặng 90kg, nhưng anh cảm thấy mình hoàn toàn bình thường. Hàng ngày, anh đi làm, đi uống rượu bia với bạn bè và không cảm thấy có gì thay đổi cho đến khi lấy vợ. Chính vợ anh là người đã ép anh đi khám để giảm cân.

"Anh ngáy rất to khiến tôi mất ngủ. Mỗi lần anh gác chân lên người tôi là tôi thấy khó thở", vợ anh H. chia sẻ khi ngồi chờ chồng khám tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM.

Kết quả kiểm tra cho thấy anh H. mắc béo phì độ 2 (chỉ số BMI 31.9 kg/m²), gan nhiễm mỡ độ 3 và hội chứng ngưng thở khi ngủ. Sau khi được bác sỹ giải thích về những nguy hiểm của béo phì, đặc biệt là hội chứng ngưng thở khi ngủ có thể dẫn đến đột tử, anh H. mới thực sự lo lắng và quyết định bắt đầu một lộ trình giảm cân đa mô thức, bao gồm dinh dưỡng, vận động và thuốc.

Theo các bác sỹ tại đây, anh H. chỉ là một trong nhiều người không chú ý đến vấn đề thừa cân, béo phì cho đến khi bệnh gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Việc trao đổi về cân nặng với bệnh nhân béo phì cũng rất khó khăn. Mặc dù họ nhận thức được nguy cơ của bệnh, nhưng lại thiếu động lực thay đổi.

TS.Lâm Văn Hoàng cho biết, trước đây béo phì không được coi là bệnh, nhưng đến năm 1990, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính thức công nhận béo phì là một bệnh mạn tính. Năm 1997, khi tỷ lệ người dân béo phì tăng gấp 3 lần so với năm 1975, WHO đã công nhận béo phì là một đại dịch toàn cầu. Từ đó, ngày 4/3 hàng năm được WHO chọn là Ngày Thế giới phòng chống béo phì.

Theo Liên đoàn Phòng chống Béo phì Thế giới, tỷ lệ béo phì toàn cầu đã tăng gấp ba lần từ năm 1975 đến 2022. Dự báo đến năm 2035, 51% dân số thế giới, tương đương hơn 4 tỷ người, sẽ bị béo phì hoặc thừa cân nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời. Nghĩa là cứ 4 người sẽ có 1 người bị thừa cân hoặc béo phì.

“Béo phì đang trở thành một nguy cơ tử vong không kém gì các bệnh tim mạch, cao huyết áp”, bác sỹ Hoàng nói.

Nếu như trước đây, béo phì chủ yếu xuất hiện ở các nước phát triển, thì hiện nay, tỷ lệ béo phì gia tăng nhanh chóng ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Hiện tại, Việt Nam xếp thứ 197 thế giới về tỷ lệ thừa cân, béo phì (theo WHO), nhưng tỷ lệ này đang tăng nhanh từ 3% lên 15%, trở thành một trong những quốc gia có tỷ lệ béo phì tăng nhanh nhất thế giới.

“Hiện nay, cứ 2 người lớn sẽ có 1 người béo phì”, bác sỹ Hoàng cho biết, trong khi việc kiểm soát cân nặng và can thiệp vẫn chưa được chú trọng đúng mức.

Không giống như các bệnh thông thường, béo phì là thủ phạm gây ra hơn 200 bệnh khác nhau, như bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ và nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đường tiêu hóa.

Tuy nhiên, vì các bệnh này diễn tiến âm thầm và không bộc phát ngay lập tức, nhiều người thường chủ quan, không đi kiểm tra sức khỏe và không kiểm soát cân nặng đúng cách. Chính vì thế, việc nâng cao nhận thức về béo phì là rất quan trọng để người dân hiểu đây là một bệnh mãn tính nguy hiểm.

Béo phì là một bệnh lý phức tạp với nhiều nguyên nhân, từ yếu tố sinh học, tâm lý xã hội đến lối sống và chế độ dinh dưỡng.

Vì vậy, để điều trị thừa cân, béo phì, không chỉ cần giảm cân mà còn phải giảm nguy cơ các biến chứng và cải thiện sức khỏe tổng thể. Việc giảm 5%-15% cân nặng trong 6 tháng đã được chứng minh là có lợi cho sức khỏe, giúp phòng ngừa các biến chứng do thừa cân và đẩy lùi các bệnh đồng mắc.

“Điều trị béo phì giống như chèo thuyền, cả bác sỹ và bệnh nhân phải cùng hướng về một mục tiêu, nếu không, điều trị sẽ thất bại”, bác sỹ Hoàng nhấn mạnh.

Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) cho biết, những người béo phì có chỉ số khối cơ thể (BMI) cao sẽ có nguy cơ phải nhập viện, thở máy hoặc tử vong cao hơn so với những người có cân nặng bình thường.

Đặc biệt, những người có chỉ số BMI từ 40 trở lên có nguy cơ phải thở máy cao gấp đôi và nguy cơ tử vong cao hơn 26% so với người có cân nặng bình thường.

Dù ở độ tuổi nào, bệnh nhân béo phì cũng có nguy cơ cao mắc các cục máu đông (huyết khối tĩnh mạch) và cần phải lọc máu. Do đó, việc điều trị y tế nghiêm ngặt, thường xuyên là rất tốn kém và cần thiết để giảm nguy cơ tử vong.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư