Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 23 tháng 11 năm 2024,
Chênh số liệu xuất nhập khẩu Việt Nam và Trung Quốc phần lớn ở hàng tiêu dùng
Bảo Duy - 13/06/2015 11:33
 
Bà Lê Thị Minh Thủy, Vụ trưởng Vụ thống kê thương mại và dịch vụ (Tổng cục Thống kê) khẳng định không có cơ sở quy kết toàn bộ 20 tỷ USD chênh lệch trong số liệu nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc là nhập lậu, nhưng có yếu tố nhập lậu.
Bà Lê Thị Minh Thủy, Vụ trưởng Vụ thống kê thương mại và dịch vụ (Tổng cục Thống kê)

Bóc tách số liệu về nhập khẩu, bà Thủy cho biết, các nhóm hàng có liên quan đến cả tiêu dùng và sản xuất, gia công như dệt may, giày dép (bao gồm quần áo, giày dép thành phẩm, vải may mặc, bông, xơ sợi dệt, nguyên phụ liệu dệt may, da giày), máy móc, thiết bị, xe cộ... có độ chênh lớn nhất, với mức khoảng 12,5 tỷ USD, chiếm trên 60%.

Một số nhóm hàng tiêu dùng chênh khá lớn gồm: rau quả các loại (1,6 tỷ USD), giường tủ bàn ghế, đồ gốm sứ, đồ dùng gia đình bằng kim loại...

“Có 6 nguyên nhân gây nên sự chênh lệch về số liệu thống kê xuất nhập khẩu Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, khó lượng hóa từng nguyên nhân đóng góp thế nào vào phân chênh lệch này”, bà Thủy nói.

Thứ nhất, do sự khác biệt phương pháp thống kê nước đối tác. Vì xuất khẩu thống kê theo “nước cuối cùng hàng đến” nên trường hợp hàng Trung Quốc - bao gồm hàng xuất xứ Trung Quốc hoặc xuất xứ nước khác – đưa sang Việt Nam được Trung Quốc thống kê là xuất cho Việt Nam trong khi Việt Nam chỉ thống kê những hàng hóa có xuất xứ Trung quốc, các hàng hóa có xuất xứ nước khác được thống kê là nhập khẩu từ nước khác.

Thứ hai, do phạm vi thống kê. Một số luồng hàng từ Trung Quốc vào Việt Nam nhưng không thuộc phạm vi thống kê: hàng tạm nhập tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu từ Trung Quốc, Hồng Kông. Do lợi thế về khoảng cách gần giữa Việt Nam - Hồng Kông, luồng hàng giữa Trung Quốc và Hồng Kong có thể được vận chuyển qua Việt Nam với thủ tục về tạm nhập tái xuất, quá cảnh hoặc chuyển khẩu. Việt Nam không thống kê nhưng Trung Quốc và Hồng Kong thống kê là xuất khẩu với nước hàng đến là Việt Nam.

Thứ ba, do xác định trị giá thống kê khác nhau. Hai nước cùng áp dụng nguyên tắc xác định trị giá hải quan nhưng với một số trường hợp, Hải quan Trung Quốc và Việt Nam có thể xác định trị giá lô hàng cao thấp khác nhau. 

Thứ tư, do hoạt động nhập khẩu lậu vào Việt Nam. Nếu phía Trung Quốc kiểm soát tốt hoạt động này bên kia biên giới thì hàng hóa được tính trong xuất khẩu của Trung Quốc nhưng không nằm trong thống kê nhập khẩu của Việt Nam. Có một vài nước thực hiện ước tính con số này trong số nhiều “hoạt động kinh tế ngầm”

Thứ năm, do gian lận thương mại. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt với các hàng hóa chịu thuế, đã thông đồng với doanh nghiệp đối tác khai giá thấp để hưởng mức thuế thấp. Ngược lại các doanh nghiệp Trung Quốc cũng có thể khai trị giá xuất khẩu cao để hưởng thuế khấu trừ cao

Thứ sáu, do sự lẫn lộn giữa hàng hóa và dịch vụ xuất nhập khẩ trong thống kê. Một số sản phẩm có thể được Việt Nam tính vào dịch vụ nhưng Trung Quốc coi là hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm có liên quan đến công nghệ thông tin như phần mềm, trò chơi điện tử vốn được lưu giữ trên băng, đĩa mềm. Trong nhiều trường hợp ranh giới phân biệt không rõ ràng nếu người khai hải quan không mô tả rõ.

Cũng phải nói thêm, số liệu từ UN-COMTRAE (Tổ chức thống kê Liên Hợp quốc) cho thấy, số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Trung Quốc chênh lệch khá nhiều với các nước, nhất là 5 nước ASEAN.  

Năm 2013, xuất khẩu của Trung Quốc sang các đối tác cao hơn nhập khẩu từ Trung Quốc: Malaysia 12 tỷ USD tương đương 27%, Indonesia 7,1 tỷ USD tương đương 19%, Philippines 11,3 tỷ tương đương 57%.

Nhập khẩu của Trung Quốc cao hơn xuất khẩu của Thái lan 11,3 tỷ USD tương đương 30%, Malaysia 29,4 tỷ tương đương 49%, Indonesia 8,8 tỷ USD tương đương 28%, Philippines 11,6 tỷ USD tương đương 63%...

“Chênh số liệu giữa Trung Quốc và ASEAN 5 tăng mạnh do Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc có hiệu lực từ năm 2010. Thời điểm thực hiện của Việt Nam chậm hơn, từ 2015, cùng với các đối tác Campuchia, Lào, Myanmar, nên có thể sẽ tiếp tục có tăng đột biến về số thống kê xuất nhập khẩu hai nước vì các lý do trên”, bà Thủy phân tích.

Đây cũng là lý do bà Thủy cho rằng, để làm rõ hơn, cơ quan hải quan hai bên phải vào cuôc. “Trung Quốc là đối tác lớn, cần phải tiến hành rà soát. Cơ quan thống kê có đề xuất nhóm công tác về vấn đề này nhưng việc thực hiện thì cần sự tham gia của cơ quan hải quan”, bà Thủy nói.

Chênh lệch số liệu giữa Việt Nam với Trung Quốc

(Đơn vị tính: tỷ USD)

 

Việt Nam

Trung Quốc

Chênh lệch trị giá

% chênh lệch

Chiều hàng đi: Việt Nam xuất khẩu -Trung Quốc nhập khẩu

2010

7.0

7.7

-0.7

-10.0

2011

11.6

11.1

0.5

4.3

2012

12.8

16.2

-3.4

-26.6

2013

13.2

16.9

-3.7

-28.0

2014

14.9

19.9

-5.0

-33.6

Chiều hàng đến: Việt Nam nhập khẩu -Trung Quốc xuất khẩu

2010

20.2

23.1

-2.9

-14.4

2011

24.9

29.1

-4.2

-16.9

2012

29.0

34.2

-5.2

-17.8

2013

36.9

48.6

-11.7

-31.7

2014

43.7

63.7

-20.0

-45.8

Nguồn: TCTK  và UN-COMTRADE

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư