Nghệ nhân Nguyễn Chí Thành và Phạm Anh Đạo là những người gìn giữ và phát huy tinh hoa của hai nghề truyền thống nổi tiếng bậc nhất Hà Nội. Trên phố Hàng Bạc sầm uất, nghệ nhân bạc tài ba Nguyễn Chí Thành đã biến mỗi tác phẩm thành biểu tượng lấp lánh, kế thừa và phát triển nghề kim hoàn bốn đời cha ông để lại. Còn Phạm Anh Đạo, nghệ nhân gốm Bát Tràng, không chỉ giữ gìn truyền thống gốm vuốt tay lâu đời, mà còn thổi vào đó sự sáng tạo và tâm huyết, làm cho mỗi sản phẩm gốm sứ trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, thể hiện nét đẹp tinh túy của đất Thăng Long.
Hai con người ấy, với bàn tay tài hoa và lòng yêu nghề sâu sắc, đã và đang góp phần làm rạng danh văn hóa Hà Nội qua từng tác phẩm của mình.
Trong nhịp sống hối hả của Hà Nội ngày nay, giữa dòng người qua lại tấp nập và sự bùng nổ của các sản phẩm công nghiệp hiện đại, hiếm người để ý đến những góc nhỏ của phố cổ, nơi từng lưu giữ và bảo tồn những nghề truyền thống từ bao đời. Một trong số đó là nghề chế tác bạc, một nghề đã tồn tại và phát triển song hành cùng lịch sử của Thăng Long nghìn năm văn hiến.
Nằm trên con phố Hàng Bạc, cái tên đã trở thành biểu tượng của nghề kim hoàn, Mỹ nghệ Hồng Châu (số 83, Hàng Bạc, Hà Nội) vẫn sáng lấp lánh như một viên ngọc. Người nghệ nhân đứng sau sự trường tồn của cơ sở này không ai khác chính là ông Nguyễn Chí Thành, người thợ bạc thuộc thế hệ thứ tư của một gia đình có truyền thống lâu đời trong nghề.
Dọc con phố Hàng Bạc, giữa những cửa hàng trang sức bạc sáng loáng, bày biện theo phong cách hiện đại, tôi gần như bỏ qua địa chỉ số 83 - nơi mà tôi đã nghe nói về người nghệ nhân đặc biệt ấy. Phố Hàng Bạc giờ đây đã thay đổi nhiều, với những cửa hiệu bạc công nghiệp lớn, trang hoàng hào nhoáng, khiến cho các cửa hàng truyền thống bị che khuất, dường như lu mờ trong tầm mắt. Chỉ khi đi xe chậm lại, tập trung quan sát, mới nhận ra tấm biển giản dị với dòng chữ “Mỹ nghệ Hồng Châu”, một dấu ấn khiêm tốn giữa những bộn bề của thời đại.
Cửa hàng của nghệ nhân Chí Thành không phô trương, nhưng khi bước vào, ai cũng cảm nhận ngay được sự khác biệt. Căn nhà hơn 100 năm tuổi ấy không phải là những quầy kính trưng bày sản phẩm công nghiệp, mà là không gian trầm lắng, với mùi hương của kim loại bạc và những dụng cụ chế tác cổ xưa. Một không khí như ngưng đọng, mang theo sự trân quý dành cho truyền thống lâu đời và sự kỳ công của những bàn tay tài hoa.
Nghệ nhân Nguyễn Chí Thành gây ấn tượng mạnh bởi diện mạo hiền từ, phúc hậu, nhưng không kém phần nghiêm nghị. Ngoài 70 tuổi, ông vẫn giữ trọn vẻ tinh tường của người thợ bạc lâu năm với khuôn mặt luôn ánh lên sự tươi vui, đôi khi có phần trầm tĩnh đủ để thực hiện chuẩn xác từng chi tiết nhỏ nhất của nghề làm bạc truyền thống.
Ngồi trong không gian nhỏ nhắn, ấm cúng của cửa hàng, trên chiếc ghế nhựa đã bạc màu thời gian, chúng tôi chăm chú lắng nghe nghệ nhân kể chuyện với tất cả sự say mê và tâm huyết. Giọng ông nhẹ nhàng, trầm ấm như từng lời thấm đượm dòng chảy của ký ức. Tiếng đài cassette cũ kỹ bên cạnh vẫn đều đều phát ra những giai điệu xưa vừa quen thuộc vừa lạ lẫm.
Tiếng nhạc, tiếng dụng cụ chế tác leng keng hòa quyện, tạo nên một giai điệu đặc biệt giữa không gian phố cổ, như một khúc nhạc không lời kể về sự bền bỉ của thời gian. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi càng cảm nhận sâu sắc, nghề bạc truyền thống này không chỉ được lưu giữ bằng kỹ thuật, mà còn bằng cả những ký ức, những âm thanh thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của bao thế hệ.
Trong lúc trò chuyện, đôi tay ông vẫn không ngừng di chuyển, tỉ mẩn tạo hình những chi tiết nhỏ trên chiếc vòng bạc, vừa khéo léo vừa đầy tập trung. Mỗi đường nét ông khắc hoạ đều mang theo một câu chuyện, một mảnh lịch sử muốn truyền đạt bằng đôi tay điêu luyện.
Nghệ nhân Chí Thành xuất thân từ làng Đình Công, nơi được xem là cái nôi của nghề kim hoàn. Gia đình ông đã gìn giữ và phát triển nghề truyền thống này từ đầu thế kỷ 20, từng thế hệ đều âm thầm nối nghiệp với niềm đam mê và lòng tận tụy. Đến nay, ông Thành đã truyền lại ngọn lửa nghề cho con trai và cháu tiếp tục bảo tồn cơ nghiệp tổ tiên để lại.
Ông có 2 người con, trong đó, người con trai lớn đã nối nghiệp cha, sinh năm 1980 và hiện đang làm việc tại Thụy Điển. Dù sống và làm việc ở nước ngoài, anh vẫn tiếp tục theo đuổi nghề chạm bạc mà ông cha truyền lại. Con trai thứ hai của ông không theo nghề truyền thống. Điều này khiến ông nhớ về gia đình, nơi chỉ có mình ông trong số 7 anh chị em theo đuổi nghề tổ truyền. Ông Thành là người thuộc thế hệ thứ ba, còn con trai ông hiện là đời thứ tư trong gia đình tiếp nối nghề chế tác bạc.
Khi nhắc về cha, về ông nội và các thế hệ trước, giọng ông trầm lắng, chan chứa cảm xúc. Họ là những con người đã dành cả cuộc đời, với biết bao công sức và tâm huyết, để truyền lại không chỉ kỹ năng điêu luyện mà còn cả những giá trị tinh thần vô giá của nghề bạc truyền thống.
Ông kể, khi Hà Nội đang chuyển mình theo từng bước đi của lịch sử, nghề bạc phát triển mạnh mẽ nhờ sự khéo léo, cần mẫn của những người thợ thủ công. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã được làm quen với những dụng cụ chế tác bạc. “Sau những buổi học trên trường, tôi thường đứng bên cạnh ông nội và cha mình, chứng kiến từng công đoạn chi tiết, từ việc làm mẫu, đổ khuôn cho đến đánh bóng từng mảnh bạc nhỏ bé. Đó là lúc mà tình yêu và niềm đam mê với nghề bạc đã bén rễ sâu trong tâm hồn của tôi”, ông Thành bồi hồi nhớ lại.
Dưới bàn tay tài hoa của những thế hệ trước, mỗi sản phẩm bạc của gia đình ông Thành đều là kết tinh của sự lao động bền bỉ và tâm huyết qua nhiều năm tháng. Những chiếc nhẫn, vòng cổ, trâm cài tóc không chỉ đơn thuần là những món đồ trang sức quý giá, mà còn là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, lưu giữ trọn vẹn ký ức về một thời đã qua.
Từng đường nét uốn lượn, từng họa tiết nhỏ đều thấm đẫm sự kiên trì, sáng tạo và lòng yêu nghề của người thợ. Mỗi sản phẩm như một lời “thủ thỉ” từ quá khứ, kể lại câu chuyện của bao thế hệ đã miệt mài thổi hồn vào từng mảnh bạc, biến chúng thành những báu vật sống động và trường tồn cùng thời gian.
Vốn đã được hun đúc từ truyền thống gia đình lâu đời, người nghệ nhân 74 tuổi nhanh chóng trở thành một người nghệ nhân tài hoa, kế thừa những giá trị tinh hoa của tổ tiên. Với tư duy sắc bén và trái tim tràn đầy nhiệt huyết, ông đã mạnh dạn bước đi trên con đường mới, đem lại sức sống mới cho nghề làm bạc.
Sự kết hợp giữa tay nghề thủ công tinh xảo và công nghệ hiện đại giúp ông vừa duy trì được nét truyền thống, vừa mang đến cho những tác phẩm của mình một hơi thở mới, làm sống động và phong phú hơn từng sản phẩm bạc tinh tế.
Quá trình tạo ra một sản phẩm bạc của ông đòi hỏi sự tỉ mỉ. Ông thường bắt đầu từ những mẫu thiết kế do khách hàng gửi đến, hoặc dựa vào những sản phẩm truyền thống đặc trưng của Hà Nội. Tùy thuộc vào độ phức tạp của mỗi món đồ, có sản phẩm chỉ mất 1 ngày để hoàn thành, nhưng cũng có những tác phẩm cần đến 2 - 3 ngày lao động chăm chỉ. Ông luôn ưu tiên những thiết kế tinh giản, với đường nét thanh mảnh, thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng nhưng đầy sức cuốn hút.
Ông Thành kể, trong quá trình học nghề, ông nhận ra rằng sự tỉ mỉ và chính xác trong từng đường nét chính là yếu tố quyết định đến chất lượng của sản phẩm. Để tạo ra một món trang sức bạc hoàn hảo, người thợ cần phải hiểu rõ đặc tính của từng loại bạc, từ bạc nguyên chất đến hợp kim, và phải khéo léo điều chỉnh lửa, áp lực khi rèn để đảm bảo độ bền và thẩm mỹ. “Đó không chỉ là công việc của tay nghề, mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa mắt nhìn và trái tim người thợ”, ông chia sẻ.
Không chỉ chú trọng đến việc duy trì chất lượng cao trong từng sản phẩm, ông Thành còn rất tâm huyết với việc bảo tồn nghề truyền thống. Ông luôn ý thức rằng, giữa dòng chảy của thời gian, nhiều nghề thủ công truyền thống đang dần mai một trước sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp hiện đại.
“Tôi tin rằng, nghề bạc truyền thống không thể bị lãng quên, nếu người làm nghề biết cách thích nghi và đổi mới mà vẫn giữ vững giá trị cốt lõi”, nghệ nhân bộc bạch.
Dù đơn hàng vẫn đều đặn, nhưng chỉ có ông, một người cháu và người con trai cả bên Thuỵ Điển nối nghiệp cùng nhau gánh vác. Ông cho rằng: “Đây là một nghề truyền thống, không phải tôi giữ bí mật, mà phẩm chất đạo đức và nhân cách mới là yếu tố quyết định. Người ngoài muốn học nghề, tôi không thể đoán định được họ ra sao, nên chỉ dạy cho con cháu trong gia đình”.
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, không thể phủ nhận rằng các sản phẩm trang sức bạc hiện đại với công nghệ sản xuất tiên tiến đang chiếm lĩnh thị trường. Điều này đặt ra không ít thách thức đối với những người thợ thủ công như ông Nguyễn Chí Thành. Tuy nhiên, đối với ông, sự khác biệt của sản phẩm thủ công không nằm ở công nghệ, mà chính là ở tinh thần và tâm huyết của người làm nghề. Mỗi sản phẩm bạc được làm ra đều mang đậm dấu ấn cá nhân của người thợ, thể hiện qua từng chi tiết nhỏ, qua sự chăm chút tỉ mỉ và lòng yêu nghề sâu sắc.
“Khó khăn lớn nhất của chúng tôi không phải là việc cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp, mà là làm sao để giữ cho khách hàng hiểu và trân trọng giá trị của sản phẩm thủ công”, ông Thành tâm sự.
Hiện tại, Mỹ nghệ Hồng Châu không chỉ sản xuất các sản phẩm trang sức bạc truyền thống, mà còn sáng tạo ra nhiều mẫu mã mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Với ông Thành, sự đổi mới không phải là việc rời bỏ cội nguồn, mà chính là cách để nghệ thuật chế tác bạc được truyền tải một cách sống động qua từng thế hệ. Ông luôn khuyến khích con cháu trong xưởng tự do thử nghiệm những kỹ thuật mới, phá vỡ giới hạn của những gì đã quen thuộc, để mỗi sản phẩm không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn chứa đựng hơi thở của thời đại.
Có thể thấy, nếu không có sự sáng tạo, nghề bạc sẽ dần trở nên lạc hậu. Nhưng với sự kết hợp giữa truyền thống và đổi mới, nghề bạc không chỉ sống sót, mà còn tỏa sáng hơn, tạo ra những giá trị nghệ thuật trường tồn qua thời gian. Trong mắt ông, sáng tạo chính là nhịp cầu nối liền quá khứ và tương lai của nghề bạc, để nghề không chỉ là kỷ niệm của ngày hôm qua, mà còn là niềm tự hào của ngày mai. “Chúng tôi không chỉ giữ gìn quá khứ, mà còn phải tạo ra tương lai cho nghề bạc”, ông nói.
“Những lúc giải lao, tôi thường đứng trước cửa tiệm và quan sát dòng người qua lại. Ở phố Hàng Bạc, nhịp sống luôn tấp nập, nhưng trong số đó, có một hình ảnh đặc biệt luôn thu hút sự chú ý của tôi là những du khách châu Âu. Họ dừng lại trước cửa tiệm, mắt sáng lên khi nhìn thấy những món đồ trang sức bạc lấp lánh, và tôi không thể không tự hỏi điều gì khiến họ bị cuốn hút đến vậy.
Khi họ đi qua, tôi lặng lẽ chú ý đến từng cử chỉ, từng ánh nhìn của họ, từ việc họ sờ vào những chiếc vòng, hay lắng nghe tiếng leng keng của bạc khi va chạm nhau. Điều này không chỉ đơn thuần là một thói quen. Đó là cách tôi nắm bắt nhu cầu và thị hiếu của khách hàng, từ đó điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp hơn với từng sở thích riêng biệt”, ông Thành chia sẻ.
Mỗi sản phẩm trong cửa tiệm đều ẩn chứa một phần tâm tư và nghệ thuật của nghệ nhân Nguyễn Chí Thành, chính vì vậy, ông luôn cố gắng tạo ra những món đồ không chỉ để bán, mà còn để kết nối với khách hàng. Đó là lý do ông không ngần ngại bước ra, trò chuyện với họ, lắng nghe những câu chuyện của họ, từ đó tìm kiếm nguồn cảm hứng mới cho những sản phẩm tiếp theo. Từng ngày trôi qua, trong không gian ấm cúng của tiệm bạc, ông như một “nhạc trưởng”, dẫn dắt cả dòng chảy của nghệ thuật chế tác bạc truyền thống giữa cuộc sống hiện đại, ghi dấu những kỷ niệm quý giá không chỉ cho bản thân mà cho cả những thế hệ tiếp theo.
Dưới chiếc bóng đèn tự chế thêm lon nước chụp lại, ông Thành giãi bày: “Hiện trên phố này chỉ còn mỗi tôi làm nghề thủ công thôi, họ dần chuyển sang buôn bán. Buôn bán thì nhanh hơn. Còn tôi thì khác, tôi yêu nghề, muốn giữ nghề nên tôi vẫn muốn làm ra những sản phẩm thủ công từ bạc”.
Cũng chính vì sự chu đáo ấy mà đến hiện tại, ông là người nghệ nhân duy nhất còn lại gắn bó với nghề chế tác bạc truyền thống trên con phố Hàng Bạc. Hành trình của ông không chỉ là câu chuyện về việc kế thừa một nghề nghiệp gia truyền, mà còn là một hành trình đầy lòng đam mê, sự kiên trì và tinh thần không ngừng học hỏi, đổi mới.
Trong dòng chảy hiện đại, khi mọi thứ trở nên nhanh chóng và hối hả, người ta thường dễ quên đi giá trị của những sản phẩm làm ra từ tình yêu và sự cống hiến. Thế nhưng, với nghệ nhân Chí Thành, mỗi chiếc nhẫn, mỗi chiếc vòng cổ… đều mang theo một câu chuyện. Những sản phẩm bạc của ông không chỉ đơn thuần để trang trí, chúng mang theo linh hồn của người thợ, sự chăm chút trong từng chi tiết, từng đường nét. Chính sự tỉ mỉ ấy đã tạo nên những tác phẩm không chỉ đẹp về hình thức mà còn giàu giá trị văn hóa.
Ông hiểu rằng, để tồn tại và phát triển trong thời đại mới, điều quan trọng không chỉ là giữ gìn các kỹ thuật truyền thống, mà còn phải biết cách làm mới mình. Ông không ngừng tìm tòi, nghiên cứu những xu hướng mới, những mẫu mã sáng tạo để phù hợp với thị hiếu của khách hàng hiện đại. Ông dành thời gian để trò chuyện với khách hàng, lắng nghe những ý kiến và mong muốn của họ. Từ đó khéo léo điều chỉnh quy trình sản xuất và mẫu mã, nhưng không bao giờ đánh mất bản sắc và giá trị cốt lõi của nghề.
Có những lúc, khi tâm hồn đắm chìm trong những kỷ niệm, tiếng nhạc từ chiếc đài cassette cũ vang lên nhẹ nhàng, lấp đầy không gian bằng những giai điệu hoài cổ. Âm thanh ấy như một nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại, nhắc nhở ông nhớ về cha, về ông nội, những người đã một đời gắn bó với nghề. Mỗi câu chuyện ông chia sẻ với tôi đều thấm đẫm tình yêu thương, lòng tự hào và sự trân trọng dành cho nghề thủ công mà ông đã chọn.
Khi rời khỏi cửa tiệm, trong lòng tôi cảm thấy ấm áp, như thể đã mang theo một phần tinh hoa của Hà Nội yêu dấu, nơi mà những giá trị truyền thống vẫn mãi trường tồn giữa nhịp sống hối hả của thời đại. Tôi cảm nhận được hơi thở của lịch sử trong từng món đồ trang sức bạc, sự tinh tế trong từng đường nét mà nghệ nhân Nguyễn Chí Thành đã dày công gìn giữ. Những câu chuyện, những ký ức và cả sự đam mê mà ông truyền tải đã chạm đến trái tim, bởi giữa cuộc sống bộn bề, những di sản văn hóa vẫn là ngọn lửa không bao giờ tắt.
Được coi là “báu vật” của làng gốm, làng thương gia Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), nghệ nhân Phạm Anh Đạo như thể được sinh ra với sứ mệnh giữ những tinh hoa còn đọng lại và duy trì vốn cổ lưu truyền tại làng gốm hơn 700 năm tuổi này.
Vượt lên nghịch cảnh và nỗ lực “bơi ngược dòng”, anh một lòng đi trên con đường riêng mình đã chọn. Con đường ấy là độc đáo, là duy nhất, là riêng biệt, là độc lập, là đạo lý, là bổn phận, như chính cái tên cha mẹ đặt cho anh.
Tình yêu Hà Nội, nơi sâu thẳm cứ tự nhiên tuôn trào qua những sản phẩm gốm mới, anh trân quý, nâng niu, giữ gìn, phát huy những giá trị tinh hoa của làng nghề nổi tiếng bậc nhất Thăng Long xưa, Hà Nội ngày nay qua những tác phẩm chứa đựng cả sự ấm nồng truyền thống và hơi thở sáng tạo thời đại mang thương hiệu Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo.
Căn nhà “Tam đại đồng đường” của gia đình nghệ nhân, doanh nhân Phạm Anh Đạo nằm trên trục đường chính cạnh chợ cổ Bát Tràng chất đầy gốm. Gian mặt tiền làm showroom Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo, trưng bày những tác phẩm đã hoàn thiện mang dáng dấp cổ điển. Men theo con ngõ nhỏ rêu phong cạnh bên để vào cổng sau khu nhà là một thế giới “độc nhất vô nhị” ở làng Bát Tràng. Đó là xưởng sản xuất, không gian Phạm Anh Đạo sáng tạo ra những tác phẩm gốm vuốt tay để đời.
Những tia nắng thu vàng ươm như mật ngọt khẽ rớt qua mái xưởng, hong khô cho hàng xương gốm đang phơi mình đợi ngày chồng lò, đùa nghịch trên đôi tay lấm lem, khuôn mặt rắn rỏi, đầm đìa mồ hôi của nghệ nhân, doanh nhân Phạm Anh Đạo.
Mặc cho khách ngắm nghía, len lỏi khắp các ngõ ngách xưởng gốm, chạy đi chạy lại quanh mình để chụp ảnh, hỏi han, ghi hình, nghệ nhân Phạm Anh Đạo vẫn không một tích tắc ngừng tay. Anh miệt mài nặn, mải mê vê vuốt trên chiếc bàn xoay cũ kỹ mà do cơ chế thị trường đã chẳng người làng Bát Tràng nào còn làm như vậy.
Nghệ nhân, doanh nhân Phạm Anh Đạo mộc mạc, chân thành, giản đơn trong cách nghĩ, cách sống. Anh lành như cục đất trong tay, chẳng hề bận tâm thế sự, thời cuộc, hay tranh đấu trên thương trường.
“Tôi là doanh nhân ngờ nghệch, ngốc nghếch nhất làng, có biết gì đâu”, câu trả lời ngắn gọn và âm sắc to bất thường của anh Đạo khiến chúng tôi có phần hụt hẫng.
Thấy vậy, chị Nguyễn Mỹ Trinh, vợ anh Đạo mỉm cười nhìn chồng âu yếm và đỡ lời: “Anh ấy mất thính giác từ nhỏ, phải nói thật to mới nghe thấy. Khi trả lời anh Đạo cũng nói rất to. Biết nhược điểm của mình, nên anh thường ngại giao tiếp nếu không thân thiết”.
Chẳng là, khi sinh ra, Phạm Anh Đạo chỉ nặng 1,7 kg, nên thường xuyên ốm yếu, khù khờ, chậm chạp, trong khi cậu em sinh đôi - nghệ nhân Hà Nội Phạm Anh Đức lại nhanh nhẹn, hoạt bát, thông minh. Sau trận viêm phế quản phải dùng kháng sinh liều cao, Đạo gần như mất đi thính giác và giọng nói.
Không nghe, không nói, không viết được đã ảnh hưởng trầm trọng tới kết quả học tập của Đạo. Suốt những ngày tháng Đức bận rộn với bài vở, thi cử, học hành và dành được tấm bằng cử nhân, thì Đạo chật vật mãi 3 năm không qua nổi lớp 6. Thế nên, nghệ nhân dân gian Phạm Ngọc Huy, cha anh buộc phải quyết định cho con nghỉ học. Ông bảo: “Tiếng là lớp 6, nhưng các thầy thương mà cho lên, chứ kiến thức của nó chỉ ở lớp 2, vì cộng trừ nhân chia nó còn chưa thạo”.
Kể từ độ ấy, Đạo thường chỉ ngồi thu lu một góc nhìn cha nhào, vuốt gốm. Người cha biết con nghe khó, nói khó, nhưng quan sát và cảm nhận được hết. Ông cho con trai đi khắp các nhà làm gốm trong làng tìm hiểu, rồi vào Xí nghiệp Gốm sứ Bát Tràng nơi ông là Giám đốc để học nghề. Chưa đầy một năm, Đạo đã thuần thục những việc mà chỉ người thợ bậc cao mới làm được. Thậm chí, có những lúc gặp phải kỹ thuật khó hay bắt đầu làm một sản phẩm phức tạp, nhiều người còn nhờ anh hướng dẫn và làm mẫu.
Là người con thuộc thế hệ thứ 19 của dòng họ Phạm Ngũ Chi, làng Bát Tràng, con trai trưởng của nghệ nhân, kỹ sư gốm Phạm Ngọc Huy, cháu cụ Phạm Liệu, một lão thợ giỏi của làng, Đạo dường như thừa hưởng tình yêu cháy bỏng với gốm, với đất, với men.
Nhìn thấy khả năng tạo hình gốm thiên phú của con trai, ông Huy vay mượn thêm tiền để mở lò gốm cho Đạo thỏa niềm đam mê và có một cái nghề.
Thế là, năm 1994, khi 17 tuổi, Đạo chính thức nối nghiệp gia đình. Lúc đó, cả làng Bát Tràng chỉ còn một vài người còn gắn bó với gốm vuốt tay, đa phần là các cụ đã cao tuổi, chỉ riêng Phạm Anh Đạo là người trẻ nhất và vẫn miệt mài, cắm cúi nặn, vuốt các sản phẩm gốm của riêng mình.
Ngày ngày vui với gốm, cười với gốm, gửi mọi nỗi niềm, tâm tư, ước nguyện vào gốm, Phạm Anh Đạo dần nói được và nói tốt hơn. Với anh, đất là người bạn tri kỷ, gốm là lẽ sống, là hơi thở, mỗi thế dáng, mỗi đường nét, đều là ngôn ngữ. Bởi thế, gốm Phạm Anh Đạo ít màu mè, nhưng có hồn và đong đầy xúc cảm.
Anh bảo: “Tôi chỉ thích ngả bàn xoay và thỏa sức sáng tạo với đất, chứ không muốn máy móc làm thay”. Cũng bởi thế, trong vòng xoáy cơ chế thị trường, Đạo trở thành của hiếm ở làng Bát Tràng.
Với chiếc bàn xoay, qua “đôi tay ma thuật” của Đạo, chưa tới 5 phút, những nắm đất vô tri đã được “phù phép” trở thành những chiếc bình, lọ hoa, cái bát… độc đáo.
“Tài không đợi tuổi”, chàng thợ gốm trẻ khiếm thính Phạm Anh Đạo đã được đề cử phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Hà Nội” sau khi gặt hái được rất nhiều giải thưởng lúc mới 27 tuổi. Nhưng vì có người cho rằng, Bát Tràng thiếu gì người tài mà phong nghệ nhân cho một người khiếm thính, nên anh tự ái, không làm hồ sơ để xét danh hiệu nghệ nhân nữa.
Tới năm 2011, khi 34 tuổi, nhờ sự động viên của vợ, anh mới chịu làm hồ sơ, gửi tác phẩm tham dự xét duyệt phong tặng danh hiệu. Khi ấy, so với lịch sử của Bát Tràng, Đạo vẫn là người được phong tặng danh hiệu nghệ nhân ở tuổi đời trẻ nhất.
Để minh chứng cho sự xứng danh của mình, Phạm Anh Đạo miệt mài sáng tạo ra những tác phẩm độc và lạ, tinh tế, cầu kỳ khiến bao người trầm trồ.
Còn nhớ, năm 2010, dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, sau gần 1 năm miệt mài nặn, vuốt, vẽ, Phạm Anh Đạo thức suốt 6 ngày đêm canh lò nung và “hô biến” thành công đôi chóe Tứ Linh cao 2,5 m, rộng 1,3 m, nặng 500 kg lớn nhất từ trước tới nay. Cặp chóe Tứ Linh nổi bật bởi kích thước gần 2 người ôm và kỹ thuật chế tác đặc biệt khi được gia công hoàn toàn bằng tay theo kỹ thuật vuốt gốm cổ truyền.
Đôi chóe khổng lồ ra đời năm 2010 nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội như là sự tri ân Đạo dành tặng dải đất sét trắng quý giá bên dòng Hồng Giang, mảnh đất quê hương nơi anh sinh ra, lớn lên, trưởng thành. Các họa tiết vẽ tứ linh (long, lân, quy, phượng) trên chóe được nghệ nhân vẽ lại, dựa trên các họa tiết gốm truyền thống với nước men rạn theo kiểu giả cổ để những lớp thế hệ sau này mường tượng tinh hoa gốm Bát Tràng.
Năm 2016, bộ tác phẩm được trao Bằng kỷ lục Việt Nam và công nhận là: “Cặp chóe Tứ linh đắp nổi được chế tác bằng phương pháp thủ công truyền thống lớn nhất” và được bán đấu giá hơn 6 tỷ đồng. Hiện, bộ tác phẩm đang được chào bán hơn 9 tỷ đồng và trưng bày tại Trung tâm Đấu giá Lạc Việt.
“Chi phí làm cặp chóe tới hơn 250 triệu đồng, chỉ riêng tiền nhiên liệu để đốt lò đã lên tới gần 40 triệu đồng, mà rủi ro rất lớn vì chỉ sai lệch nhiệt độ đôi chút sẽ không ra đúng màu men”, chị Trinh bật mí.
Với những người nghệ nhân giỏi, làm sản phẩm lớn đã khó, bằng tay lại càng khó hơn, vì phải tạo hình trên bàn xoay, phải tính cốt đất, lượng nhiệt sao cho khi nung mà không bị nổ men. Đặc biệt, đôi chóe ấy lại được làm với nước men rạn, giả cổ. Vậy mà, cả hai kỹ thuật khó vào bậc nhất ấy Phạm Anh Đạo đều chinh phục được.
Tự nhận mình là doanh nhân ngờ nghệch, thương hiệu Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo có tiếng vang như bây giờ phải kể tới công lao của chị Mỹ Trinh. Người phụ nữ xinh đẹp, đảm đang, chăm con khéo, kinh doanh giỏi ấy sinh ra ở làng gốm Kim Lan, giáp làng Bát Tràng và cũng có tình yêu cháy bỏng với gốm.
Về chung một nhà năm 2002, tình yêu của đôi trai tài, gái sắc nhanh chóng “đơm hoa kết trái”. Hai cậu con trai nối tiếp nhau chào đời và lớn lên khỏe mạnh, thông minh, ngoan ngoãn.
Nhưng vợ chồng anh Đạo lại vướng phải khó khăn về kinh tế. Bởi, đó cũng là thời gian làng gốm Bát Tràng lao đao vì không cạnh tranh được với hàng gốm sứ công nghiệp của Trung Quốc. Kinh tế gia đình khó khăn, thợ gốm Bát Tràng buộc phải bỏ nghề gốm vuốt tay để đầu tư máy móc sản xuất gốm công nghiệp. Cả làng làm khuôn, áp dụng kỹ thuật “đúc, rót”, mỗi mẻ gốm cho ra đời cả ngàn sản phẩm nuột nà, đều tăm tắp.
Trong khi đó, Đạo thành công với những sản phẩm gốm vuốt, nặn, vẽ theo phương pháp cổ truyền độc và lạ để trưng bày, nhưng đồ gốm gia dụng lại khó cạnh tranh với gốm công nghiệp bóng bẩy, đa dạng kích cỡ, màu sắc và kiểu dáng. Đến cả nghệ nhân Phạm Ngọc Huy cũng nóng lòng, sốt ruột khi thấy con trai lấy men, dội một cái loang loang lổ lổ, rồi đang vuốt tròn trĩnh lại vặn, ngoéo, đấm nhẹ cho lõm vào chẳng ra thể loại gì.
Sản lượng thấp, giá cao khó bán lại thấy chồng tốn nhiều sức lực, chị Mỹ Trinh bàn với anh Đạo làm gốm bằng máy, nhưng anh gạt đi, nhất quyết không đồng ý. Thế là, chị bỏ hẳn ý định, âm thầm hỗ trợ chồng và càng ngày càng mê đồ gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo.
Dù không nói ra, nhưng hai người đồng tâm và ngầm hiểu với nhau rằng, phải đi một con đường khác biệt. Không làm những thứ màu mè lòe loẹt, bóng bẩy như ngoài chợ, Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo mang đậm phong thái gốm cổ Bát tràng với hoa văn, họa tiết, men lam, men rạn mang gam màu xưa cũ. Bên cạnh những mẫu truyền thống, Đạo không ngừng cho ra đời những tác phẩm có kiểu dáng hiện đại, phá cách theo phương pháp thủ công của ông cha.
Sinh ra ở làng gốm Kim Lan, nên chị Trinh bắt nhịp với gốm vuốt tay rất nhanh. Chị phụ chồng xoay bàn, vẽ, tráng men và bán hàng. Anh Đạo chuyên về tạo hình, vuốt. Chị cũng thuê thêm thợ, thực hiện các công đoạn đắp, tiện, chỉnh sửa để hoàn thiện sản phẩm.
Có điều, làm gốm thủ công sản lượng ít, giá thành lại cao, thị trường hẹp, để sống được bằng nghề như bây giờ, chị Mỹ Trinh đã rất vất vả. Chị kể: “Với gốm công nghiệp, mỗi tháng có thể sản xuất 10 lò, mỗi chiếc cốc chỉ có giá 50.000 đồng. Nhưng gốm thủ công sản lượng mỗi tháng chỉ được 1-2 lò, giá một chiếc cốc cùng cỡ từ 150.000 - 200.000 đồng. Vì thế, tôi phải mày mò học marketing để bán hàng, chứ những ngày đầu chưa biết bày biện, người làng đi qua còn bĩu môi”.
Đưa ánh mắt trìu mến nhìn chồng đang mải mê bên bàn xoay, mặc cho những giọt mồ hôi thỉnh thoảng nhỏ xuống, thấm vào khối đất sét trong tay, chị bảo: “Anh Đạo tuyệt nhiên không quan tâm tới việc định giá, khách đến còn biếu, tặng chứ không bán. Anh ấy là một nghệ sỹ đích thực. Trước đây, gốm thủ công gần như chỉ có các nghệ sỹ hoặc giới sưu tầm đồ cổ quan tâm, việc mở rộng thị trường không hề dễ dàng. Nhưng tôi luôn vững tin rằng, mọi người cũng sẽ như mình, sẽ trân quý những sản phẩm chứa đựng tâm huyết và cảm xúc của anh Đạo”.
Thị trường vốn hay theo trào lưu và bao giờ cũng đổ xô vào cái mới, nhưng thị trường cũng là nơi khắc nghiệt với sự đào thải không ngừng. Bởi thế, các sản phẩm gốm công nghiệp cũng tới lúc bão hòa. Nhưng, bằng đôi tay ma thuật, bằng cặp mắt đẫm chất nghệ và một lòng kiên định với phương thức làm gốm truyền thống, quyết “bơi ngược dòng” đã khiến Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo trở nên khác biệt, độc đáo, cuốn hút và thuyết phục.
Rất nhiều khách hàng ban đầu tìm tới sản phẩm gốm của Đạo vì hiếu kỳ, nhưng càng tiếp xúc càng thấy đẹp và trân quý. Bởi, mỗi sản phẩm gốm vuốt tay là một tác phẩm độc bản, chất chứa những đam mê và hồn cốt của nghệ nhân Phạm Anh Đạo.
Thế nên, gốm vuốt tay giờ được xem như “cơm tám giò chả” của làng gốm Bát Tràng. Chị Trinh kể, rất nhiều khách hàng đến showroom, vào xưởng xem anh Đạo làm gốm, khi mua sản phẩm họ bảo sao bán rẻ thế và đưa vượt tiền so với giá niêm yết và bảo để cảm ơn nghệ nhân Phạm Anh Đạo.
Có lẽ, chính tình yêu lao động, những giá trị truyền thống và sự khác biệt đã “định giá” cho gốm Đạo, mà không phải người bán hàng nào cũng may mắn có được.
Dù có ai đó coi Phạm Anh Đạo là "gàn", là "dở", thì anh vẫn có rất nhiều "fan" hâm mộ mua tác phẩm của anh với tất cả niềm đam mê. Chị Trinh cho biết: “Có chị khách chia sẻ: Chị đã có cả một gia tài gốm của Đạo và dành nguyên căn nhà 5 tầng để trưng bày. Hay một vị khách quen cho biết, đến nghèo vì sưu tầm gốm của anh Đạo mất thôi!”.
Chị Mỹ Trinh kể, làm gốm vuốt tay rất lao lực và tốn thời gian, nên anh Đạo thường bị đau đầu, đau lưng khi tập trung cao độ. Nhiều hôm đang vuốt, anh bỏ đó, rít điếu thuốc lào hoặc đi chơi cho đầu óc thư giãn rồi mới về làm tiếp.
Để có được những sản phẩm gốm vuốt tay tinh xảo, chắc chắn không chỉ cần niềm đam mê, sự xả thân làm việc với mồ hôi và nước mắt mà còn cả sự thao thức và lao lực trong sáng tạo. "Có hôm 2 giờ sáng, anh ấy bật dậy rồi lọ mọ ra xưởng gốm ngồi nhào, nặn những thứ mới nghĩ ra. Tôi hỏi thì anh bảo phải làm ngay nếu không ý tưởng sẽ biến mất. Anh ấy yêu gốm còn hơn yêu vợ”, chị Trinh mắng yêu chồng.
Không chỉ khách hàng, Phạm Anh Đạo cũng ngày càng được nhiều bạn bè trong giới đánh giá cao và họ giới thiệu nhau tới chơi, thưởng thức tài nghệ. Nhiều nơi mời Phạm Anh Đạo tham dự các triển lãm, anh cũng gặp gỡ nhiều nghệ nhân, văn nghệ sĩ và báo giới.
Không chỉ giới văn nghệ sĩ ngày càng yêu thích cái lõm, cái lồi, nước men loang lổ, vốn bị nhiều người cười chê là… chỉ có bán cho “ma Tây”, sản phẩm của Phạm Anh Đạo thế mà bán cho nhiều khách quốc tế và được họ si mê.
Khi những kiến trúc sư người Nhật Bản xây cầu Thanh Trì và tham quan làng gốm Bát Tràng, họ đã không thể cưỡng lại sức hút độc đáo của Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo, nên đặt mua và giới thiệu cho bạn bè. Nhiều cửa hàng Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Mỹ… ở Việt Nam, rồi khách từ trong Nam tìm đến, đơn đặt hàng ngày càng nhiều lên.
Gốm của “anh Đạo điếc” ngày càng đắt hàng, dù giá cao gấp mấy lần “gốm máy”. Bấy giờ nghệ nhân Phạm Ngọc Huy mới hiểu, việc Đạo vẩy men loang lổ, bóp méo sản phẩm tưởng như đơn giản, bình thường nhưng chính là sự sáng tạo nghệ thuật.
Đơn hàng xuất khẩu đi Nhật đầu tiên của vợ chồng anh Đạo, chị Trinh là 600 bình gốm, sau 3 tháng phải giao hàng. Lúc đầu, chị Trinh không dám nhận vì chồng chưa bao giờ làm lượng sản phẩm lớn trong thời gian ngắn như vậy. Nhưng anh Đạo quyết nhận và làm đến quên ăn, quên ngủ.
Thành công ngoài mong đợi, tiếng tăm của nghệ nhân gốm vuốt tay càng vang xa. Nhờ đó, xưởng gốm của gia đình anh Đạo ngày càng khởi sắc, kinh tế ổn định. Chị Trinh bày tỏ: “Không chỉ vui vì bán được hàng đâu, tôi thực sự tự hào và hạnh phúc vì sản phẩm gốm thủ công của chồng được bạn bè thế giới yêu thích, đặc biệt là những vị khách Nhật Bản vốn nổi tiếng khó tính”.
Chị Trinh cho biết, cách đây vài năm, có vị khách người Nhật đi tham quan làng gốm Bát Tràng. Thấy anh Đạo tự tay vuốt gốm, vị khách mời anh sang Nhật để dạy nghề cho công nhân xưởng gốm của ông, nhưng anh từ chối vì khả năng nghe, nói kém.
Theo lý giải của nghệ nhân Phạm Anh Đạo: “Người Nhật cũng là những bậc thầy về đồ gốm sứ, nhưng họ vẫn thích gốm Bát Tràng bởi cách tạo hình và nước men đẹp”.
Chị Mỹ Trinh cho biết, khoảng 10 năm gần đây, sản phẩm gốm thủ công ngày càng được yêu thích nhờ sự phát triển của mạng xã hội. Mỗi cuối tuần, showroom đón rất nhiều du khách đến tham quan, mua sắm. Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo cũng đã có mặt khắp 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Ngay cả khoảng thời gian Covid-19 ập đến, sức mua giảm, xuất khẩu gần như đóng băng, nếu như hầu hết các xưởng công nghiệp trong làng tồn kho rất nhiều, thì gốm Đạo vẫn làm ra đến đâu hết tới đó.
Hơn hai thập kỷ gắn bó với nghệ nhân khiếm thính của làng gốm Bát Tràng, giọng chị Trinh khản đặc, không còn trong veo như hồi con gái bởi hàng ngày phải nói to khi giao tiếp với chồng. Nhưng giờ đây, chị đã có thể yên tâm quán xuyến gia đình, chăm lo con cái và vận hành xưởng gốm.
“Nhiều khi tôi thấy mình thật nghị lực. Bao nhiêu bức xúc, tủi hờn giờ đều tan biến vì niềm tin yêu, cảm phục của bạn bè, của khách hàng dành cho anh Đạo. Điều đó trở thành nguồn động viên lớn lao, giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện những dự định trong tương lai”, chị trải lòng.
“Giàu vì bạn, sang vì vợ”, với nghệ nhân, doanh nhân Phạm Anh Đạo, có lẽ đã được trọn vẹn cả hai điều đó. Bởi bên anh luôn có người vợ tài giỏi, hai con mạnh khỏe, ngoan ngoãn và những người bạn trân quý.
Gốm không chỉ là vật phẩm kinh tế hay đồ dùng phục vụ sinh hoạt đời sống thường ngày, nó còn là những sản phẩm mỹ nghệ, biểu hiện cho sự phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm văn hóa của dân tộc.
Sản phẩm gốm truyền thống được tạo ra bởi bí quyết sản xuất và đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao. Thời xưa, các lò gốm thủ công tuyệt đối giấu nghề theo phương pháp cha truyền con nối. Đặc biệt, men gốm là bí quyết của mỗi nhà lò và được gìn giữ như “tuyệt kỹ kungfu” vậy.
Thế mà, bên cạnh việc sản xuất kinh doanh, nghệ nhân Phạm Anh Đạo còn dạy nghề. Dù bị nặng tai, nhưng không ảnh hưởng tới công việc này, vì đặc thù việc dạy nghề truyền thống là “truyền tay chỉ việc”. Tuy nhiên, đây chỉ là hoạt động mang tính cá nhân, nhỏ lẻ chứ chưa hình thành lớp học.
Chị Trinh tâm sự, hai con trai Duy Anh và Quang Anh đều có tố chất giống bố và bộc lộ khả năng làm gốm. Nhưng sau này các con có theo hướng đi của bố và làm công việc truyền thống của làng hay không thì chưa dám chắc.
“Hôm trước, con trai Duy Anh làm một chiếc bình gốm và được vận động mang đi đấu giá. Tôi giới hạn giá từ 0 đồng tới 800.000 đồng. Chỉ 15 phút sau đã bán được, khiến mọi người trách là sao lại giới hạn giá. Tôi làm thế để các con biết trân trọng công sức của bố và noi theo tài năng, đam mê của anh Đạo, không bị ngộ nhận về bản thân”, chị Trinh kể.
Mong muốn lớn nhất của Đạo giờ đây là có sức khỏe để được tiếp tục làm nghề, bởi “nghề vuốt gốm là cuộc sống của tôi, dù nhọc nhằn, nhưng tôi vẫn sẽ giữ nghề, không thể bỏ được. Tôi muốn tạo nên những tác phẩm gốm tinh xảo hơn nữa”, nghệ nhân Phạm Anh Đạo nói.
Thú vui của nghệ nhân Phạm Anh Đạo trong giờ giải lao là dùng Ipad chụp lại những sản phẩm đẹp mắt do chính mình “phù phép”.
Đặc biệt, ngoài việc đam mê làm nghề, anh Đạo còn cùng vợ tham gia học khiêu vũ quốc tế. Điều thật kỳ lạ là dù anh khiếm thính, nhưng cảm thụ âm nhạc lại rất tốt và chỉ nhìn thầy đi một lượt đã đi lại chính xác.
Tài hoa, tình yêu đất, khao khát và nỗ lực nâng tầm giá trị cổ truyền của Phạm Anh Đạo suốt hơn 20 năm qua đã giúp anh tìm được tiếng giao hòa của những người yêu gốm. Người nghệ nhân chẳng những trở thành ông chủ của một thương hiệu gốm được nhiều khách hàng ưa thích, mà còn đánh thức một số hộ sản xuất gốm quay lại với cách làm gốm vuốt tay truyền thống. Nghệ nhân Phạm Anh Đạo đã đưa nghề gốm vuốt tay trở lại với làng gốm Bát Tràng sau nhiều năm bị sao nhãng.
“Hồn của đất - tình của người” từ lâu đã là “slogan” của vợ chồng anh Đạo, chị Trinh. Với tài năng thiên bẩm, sự tinh tế và trái tim rung cảm nghệ thuật tuyệt vời, Phạm Anh Đạo sớm nhận thấy và lĩnh hội được những tinh túy mà cha ông ngàn năm đúc kết.
Với anh, nghề gốm không phải con đường mưu cầu danh lợi hay vật chất mà là để thỏa mãn khát vọng nhân lên những giá trị, những tinh hoa chất chứa hồn cốt bao đời ở dải đất sét trắng quý giá, của văn hóa Thăng Long. Và còn bởi khát khao mỗi lần khách đến Hà Nội, không thể không tới làng gốm cổ Bát Tràng, mà Gốm vuốt tay Phạm Anh Đạo chính là mạch máu cơ thể ngày đêm chảy tràn nhựa sống.
(CÒN NỮA)