Chủ Nhật, Ngày 09 tháng 03 năm 2025,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua
Ngân hàng nội chia tay quỹ ngoại; Chứng khoán và bất động sản hưởng lợi khi tiền rẻ hơn
T.L - 09/03/2025 10:16
 
Quỹ ngoại thoái vốn tại nhiều nhà băng Việt; Giải pháp khẩn để tăng bơm vốn vào nền kinh tế; Chứng khoán và bất động sản hưởng lợi khi lãi suất giảm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vắng bóng tháng 2/2025... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Quỹ ngoại thoái vốn tại nhiều nhà băng Việt

Một số quỹ ngoại bán ra cổ phiếu, thoát bớt vốn ở ngân hàng trong thời gian gần đây. Ở nhiều ngược lại, một số nhà băng hút tiếp vốn ngoại. 

Nhà đầu tư ngoại có phiên đột biến bởi giao dịch thỏa thuận khủng cổ phiếu VIB và tiếp tục bán ròng gần 400 tỷ đồng.

Cụ thể, ngày 5/3, trên sàn giao dịch HoSE, nhà đầu tư nước ngoài mua vào gần 181,5 triệu đơn vị, tổng giá trị đạt 4.366,57 tỷ đồng, tăng mạnh 178,9% về khối lượng và tăng hơn 106% về giá trị so với phiên ngày 4/3. Ngược lại, khối này bán ra 195,3 triệu đơn vị, giá trị đạt 4.725,57 tỷ đồng, tăng 113,37% về khối lượng và 93,34% về giá trị so với phiên trước.

Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 13,82 triệu đơn vị, giá trị bán ròng tương ứng đạt 359 tỷ đồng, giảm 47,77% về lượng nhưng tăng 10,35% về giá trị so với phiên trước đó. Đáng chú ý, giao dịch đột biến của khối ngoại xuất phát từ việc trao tay theo phương thức thỏa thuận hơn 127 triệu cổ phiếu VIB, tương ứng tổng giá trị hơn 2.600 tỷ đồng. Số cổ phiếu này hiện chiếm 4,26% vốn cổ phần VIB.

Đóng cửa phiên 5/3, cổ phiếu VIB chỉ giảm nhẹ 0,5% xuống mức 21.000 đồng/cổ phiếu. Cụ thể, trong ngày 5/3, nhà đầu tư nước ngoài đã có phiên giao dịch có khối lượng đột biến trên sàn HoSE với hơn 128 triệu cổ phiếu được bán ra, tổng giá trị ước khoảng 2.600 tỷ đồng và hơn 127 triệu cổ phiếu được mua vào.

Hiện chưa rõ bên mua và bên bán lượng cổ phiếu trên, nhưng trước đó, vào cuối tháng 10/2024, cổ đông ngoại chiến lược Commonwealth Bank of Australia (CBA) xác nhận đã bán ra 300 triệu cổ phiếu VIB trong phiên 29/10, thu về khoảng 5.400 tỷ đồng và bán ra gần 150 triệu cổ phiếu trong phiên 24/9, ước thu về là khoảng 160 triệu AUD (khoảng 2.700 tỷ đồng). Sau giao dịch đó, CBA đã giảm sở hữu về hơn 140 triệu cổ phiếu VIB, tương ứng 4,7064% vốn điều lệ của ngân hàng và chính thức không còn là cổ đông lớn của VIB. Cổ đông này trước đó đã công bố kế hoạch thoái vốn tại VIB.

CBA cũng nhấn mạnh việc thoái vốn tại VIB là phù hợp với chiến lược tập trung vào mảng ngân hàng tại khu vực Australia và New Zealand. CBA cho biết, sẽ phân loại lại phần cổ phiếu VIB nắm giữ từ đầu tư vào công ty liên kết sang chứng khoán đầu tư. Kể từ đầu tháng 7/2024, VIB đã khóa tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa (room ngoại) ở mức 4,99% (148,7 triệu cổ phiếu). Do đó, nhiều khả năng lần bán ra lần này là từ phía CBA.

Tương tự, một quỹ ngoại cũng đã bán ra hơn 40 triệu cổ phiếu OCB vào cuối tháng 2/2025, giảm tỷ lệ sở hữu dưới 1%. OCB vừa cập nhật thông tin cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên. Theo đó, Portal Global Limited không còn là cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ tại ngân hàng khi giảm tỷ lệ nắm giữ từ 3,026% xuống 0,873%, hiện sở hữu hơn 21,5 triệu cổ phiếu OCB. Trước đó, theo cập nhật của ngân hàng đến ngày 24/7, Portal Global Limited từng nắm hơn 62,1 triệu cổ phiếu OCB, tương đương 3,026% vốn. Cổ đông không có thông tin về người liên quan.

Theo danh sách cập nhật ngày 24/7, OCB có 20 cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên. Tổng cộng, những cổ đông này nắm 1,66 tỷ cổ phiếu OCB, tương ứng 80,6% vốn điều lệ của ngân hàng. Trong danh sách này, có 13 cổ đông tổ chức, nắm tổng cộng 1,46 tỷ cổ phiếu OCB, hay 55,7% vốn của ngân hàng. Ngoài ra, OCB còn có 7 cổ đông cá nhân, sở hữu 24,8% vốn.

Cổ đông chiến lược Aozora Bank đang là tổ chức nắm giữ nhiều cổ phiếu OCB, đạt 308,2 triệu cổ phiếu, hay 15% vốn điều lệ. Cổ đông này không có người liên quan sở hữu cổ phiếu. Cổ đông cá nhân sở hữu nhiều cổ phiếu nhất là Chủ tịch Trịnh Văn Tuấn khi nắm 91,1 triệu cổ phiếu, hay 4,43% vốn. Tổng cộng ông Tuấn cùng với người liên quan sở hữu tổng cộng 19,92% vốn tại OCB hay 409 triệu cổ phiếu. Số lượng cổ phiếu do ông Tuấn và NLQ nắm đang vượt trần quy định.

Trước đó, vào đầu tháng 2/205, hai quỹ của Dragon Capital thoái vốn tại Sacombank. Cụ thể, Sacombank đầu tháng 2/2025 cập nhật nhiều thay đổi trong danh sách các cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ ngân hàng. Theo đó, trong danh sách lần này giảm từ 6 cổ đông xuống còn 5 cổ đông, sau khi quỹ ngoại Amersham Industries Limited - quỹ đầu tư thuộc nhóm quỹ Dragon Capital, thoái vốn sau ba tuần góp mặt.

Trước đó, quỹ này sở hữu hơn 19,04 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 1,01% (danh sách cập nhật ngày 13/1). Người liên quan đến cổ đông này sở hữu hơn 20,71 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 1,1%. Một quỹ khác cũng thuộc Dragon Capital làNorges Bank cũng giảm tỷ lệ nắm giữ từ 1,27% xuống 1,1%, hiện sở hữu 20,97 triệu cổ phiếu STB. Bên cạnh đó, Pyn Elite Fund, tổ chức sở hữu nhiều cổ phần nhất tại Sacombank, với gần 115,8 triệu cổ phiếu, tương đương 6,14% vốn điều lệ, đã giảm hơn 10,8 triệu cổ phiếu so với lần công bố trước.

Duy nhất, quỹ ngoại SCB Vietnam Alpha Fund Not For Retail Investors nâng tỷ lệ sở hữu lên 1,57% vốn Sacombank, tương ứng gần 29,6 triệu cp. Cùng với đó, quỹ ngoại Tianhong Vietnam Thematic Fund (QDII) tiếp tục duy trì nắm 30,25 triệu cổ phiếu hay 1,6% vốn, không thay đổi so với lần công bố trước đó. Tổng cộng tất cả 5 cổ đông trên sở hữu gần 259,2 triệu cổ phiếu, tương ứng 13,73% vốn ngân hàng Sacombank. Trong danh sách này, chỉ có một cá nhân duy nhất là ông Dương Công Minh, Chủ tịch HđQT Sacombank, sở hữu gần 62,57 triệu cổ phiếu, tương đương 3,32% cổ phần của ngân hàng. Em gái ông Minh là bà Dương Thị Liêm cũng đang sở hữu 11,86 triệu cổ phiếu, tương ứng 0,63% vốn Sacombank.

Trong một chiều hướng ngược lại, BIDV vừa công bố thông tin thay đổi tổng số lượng cổ phiếu lên hơn 7,02 tỷ cổ phiếu, sau đợt phát hành cổ phiếu. BIDV đã chào bán 123,8 triệu cổ phiếu riêng lẻ cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp với mức giá được xác định là 38.800 đồng/cp. Theo đó, BIDV đã chào bán gần 38,7 triệu cổ phiếu cho các nhà đầu tư trong nước và gần 85,2 triệu cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 50%.

Danh sách gồm 5 tổ chức, trong đó, Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) mua khối lượng lớn nhất với gần 59 triệu cổ phiếu, chiếm 47,7% tổng lượng chào bán; Hanoi Investments Holdings Limited (Hanoi) mua 15,7 triệu cổ phiếu; DC Developing Markets Strategies Public Limited Company là 8,5 triệu cổ phiếu; Samsung Vietnam Securities Master Investment Trust (SSMIT) với hơn 1,9 triệu cổ phiếu và Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) với 38,7 triệu cổ phiếu.

BIDV cho biết tổng thu ròng đợt chào bán là gần 4.752 tỷ đồng sau khi trừ đi các chi phí khác. Sau thay đổi trên, tổng vốn điều lệ của BIDV tăng từ 68.975 tỷ đồng lên hơn 70.213 tỷ đồng. Trước đó, BIDV cũng đã hoàn tất phát hành cổ phiếu để trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu, theo đó ngân hàng đã phát hành thêm gần 1,2 tỷ cổ phiếu, tương ứng gần 11.971 tỷ đồng vốn điều lệ. Sau thay đổi trên, tổng vốn điều lệ của BIDV đã tăng từ 57.004 tỷ đồng lên hơn 68.975 tỷ đồng.

Lãi suất giảm, tín dụng tăng: Chứng khoánbất động sản sẽ hưởng lợi nhiều nhất

NHNN vừa giảm sâu lãi suất tín phiếu và có thể giảm lãi suất trên thị trường mở. Theo ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Nghiên cứu FIDT, lãi suất thị trường có thể tiếp tục giảm nhẹ. Bất động sản, chứng khoán sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi tiền được bơm thêm vào nền kinh tế.

f
Ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Nghiên cứu FIDT

NHNN đã giảm sâu lãi suất tín phiếu từ mức 4% tháng 2/2025 về mức 3,1% ngày 4/3. Theo ông, Ngân hàng Nhà nước có tiếp tục giảm thêm lãi suất điều hành, đặc biệt là trần lãi suất huy động (kỳ hạn dưới 6 tháng) và trần lãi suất cho vay?

Gần đây, Thủ tướng và Chính phủ liên tục chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lên mức 8% trong năm nay và hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tiếp theo.

Đáp lại chỉ đạo này, Ngân hàng Nhà nước đang tập trung tối ưu các công cụ trên thị trường mở, thể hiện rõ ở việc lãi suất tín phiếu kỳ hạn ngắn (7 ngày) đã giảm từ 4% xuống còn 3,1%, nhằm kéo giảm lãi suất liên ngân hàng.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng nới kỳ hạn một số hợp đồng repo (reverse repo) lên 14-28 ngày với lãi suất giữ nguyên 4%, hỗ trợ ổn định nguồn vốn kỳ hạn dài, qua đó tạo thêm điều kiện thuận lợi để duy trì mặt bằng lãi suất thấp trung hạn và điều kiện thanh khoản dồi dào. 

Tôi cho rằng, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều tiết lãi suất và thanh khoản chủ yếu thông qua các công cụ thị trường mở (tín phiếu, reverse repo) nhằm nới lỏng và kiểm soát lãi suất ngắn hạn.

Việc can thiệp mạnh tay vào lãi suất trung, dài hạn như trần lãi suất tiền gửi hay lãi suất cho vay khó xảy ra ngay, bởi cơ quan điều hành mong muốn mức lãi suất này vận động theo quan hệ cung cầu vốn của thị trường. Khi thanh khoản dồi dào và lãi suất liên ngân hàng giảm, các ngân hàng sẽ tự điều chỉnh lãi suất huy động - cho vay xuống mức hợp lý.

Vậy ông cho rằng, lãi suất trên thị trường dân cư có tiếp tục giảm thời gian tới, sau khi Ngân hàng Nhà nước giảm một số loại lãi suất điều hành?

Tôi cho rằng, khó kỳ vọng giảm mạnh hơn nữa ở kỳ hạn dài (12 tháng trở lên) trong ngắn hạn. Vì vậy, chúng ta có thể kỳ vọng lãi suất huy động và cho vay vẫn duy trì ổn định vùng đáy (hoặc giảm nhẹ), nhưng không giảm sâu đột ngột và sẽ phụ thuộc vào cân bằng cung cầu trên thị trường vốn.

Lãi suất giảm, liệu việc huy động vốn của hệ thống để phục vụ mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao thời gian tới có gặp khó khăn gì không? Theo ông, thanh khoản ngân hàng năm nay có gặp áp lực gì không? 

Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang duy trì hệ số an toàn vốn (CAR) ở mức cao, phần lớn đáp ứng hoặc vượt tiêu chuẩn Basel II, một số còn hướng tới Basel III. Đây là nền tảng quan trọng để có thể mở rộng tín dụng mà vẫn kiểm soát được rủi ro.

Thêm vào đó, thanh khoản của hệ thống được dự báo sẽ dồi dào hơn trong năm nay, bởi có nhiều yếu tố hỗ trợ.

Thứ nhất, cải cách bộ máy nhà nước với quy mô 130.000 tỷ đồng cùng kế hoạch đầu tư công lên đến 900.000 tỷ đồng không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn giúp bơm một lượng lớn tiền vào lưu thông, qua đó bổ sung thanh khoản cho các ngân hàng.

Thứ hai, chu kỳ kinh tế khởi sắc - khi các ngành, lĩnh vực phục hồi mạnh, vòng quay vốn trong nền kinh tế cũng nhanh hơn, lượng tiền luân chuyển tăng, hỗ trợ ngược lại cho hệ thống ngân hàng về nguồn tiền gửi.

Thứ ba, dòng vốn ngoại tiếp tục đổ vào Việt Nam thông qua FDI, FII, kiều hối và thặng dư thương mại. Những khoản ngoại tệ này khi chuyển đổi sang nội tệ sẽ gia tăng cung tiền VND trong hệ thống, giúp các ngân hàng duy trì mức lãi suất cho vay hấp dẫn.

Vậy ông đánh giá như thế nào về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế?

Theo tôi, năm nay nhu cầu vay dự kiến mở rộng đáng kể nhờ hàng loạt chính sách kích thích khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản - nơi Chính phủ đang tháo gỡ nhiều rào cản pháp lý để tái khởi động và hoàn thành các Dự án dang dở.

Việc lãi suất giữ ở mặt bằng thấp cũng khiến nhiều doanh nghiệp “mạnh tay” hơn trong kế hoạch đầu tư, mở rộng sản xuất.

Đồng thời, khu vực FDI và doanh nghiệp Nhà nước đang đẩy mạnh kế hoạch phát triển quy mô lớn; điều này làm tăng đáng kể nhu cầu tín dụng và tốc độ giải ngân vốn.

Nhìn chung, sự kết hợp giữa nguồn vốn dồi dào trong hệ thống ngân hàng và cầu tín dụng đang dự kiến khi kinh tế hồi phục khiến mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm nay (thậm chí cao hơn vào các năm tiếp theo, khoảng 18-20%) trở nên khả thi. Mức 16% năm nay cũng không quá vượt trội so với giai đoạn 2023-2024 (vốn dao động 14%/năm) nếu xét trong bối cảnh kinh tế hiện tại đã bước vào chu kỳ tăng trưởng mạnh hơn đáng kể.

Tiền sẽ được bơm ra nền kinh tế nhiều hơn trong giai đoạn tới, theo ông, những kênh đầu tư nào sẽ hưởng lợi nhiều nhất?  

Khi mặt bằng lãi suất được duy trì ở mức thấp, trong khi lạm phát có dấu hiệu tăng, nhà đầu tư thường ưu tiên đổ tiền vào các tài sản có khả năng sinh lời cao và giúp phòng ngừa trượt giá. Tại Việt Nam, hai kênh hưởng lợi rõ rệt chính là bất động sản và chứng khoán.

Về bất động sản, lĩnh vực này không chỉ được hưởng lợi từ dòng vốn tín dụng giá rẻ, mà còn nhờ các biện pháp tháo gỡ thủ tục pháp lý của Chính phủ. Các dự án “đóng băng” trước đây có cơ hội tái khởi động, nhiều kế hoạch phát triển quỹ đất mới được đẩy nhanh hơn. Đồng thời, xu hướng đô thị hóa mạnh và nhu cầu nhà ở, bất động sản công nghiệp vẫn là động lực tăng trưởng dài hạn. Khi lãi suất vay mua nhà hay đầu tư bất động sản tiếp tục ở vùng thấp, khẩu vị đầu tư vào địa ốc sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn.

Một điểm quan trọng nữa là với các quy định pháp lý hoàn thiện sau Luật Đất đai (dự kiến sửa đổi, bổ sung), rủi ro pháp lý vốn phổ biến giai đoạn 2020-2022 sẽ được hạn chế, tạo môi trường minh bạch, ổn định hơn cho nhà đầu tư. Khi những lo ngại về tính pháp lý của dự án giảm dần, dòng tiền đổ vào Bất động sản nhiều khả năng sẽ mạnh mẽ hơn, hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng cho toàn thị trường.

Về chứng khoán, dòng tiền có xu hướng chuyển dịch từ kênh gửi tiết kiệm (lãi suất thấp) sang cổ phiếu. Tâm lý lạc quan đến từ mức tăng trưởng GDP cao, hoạt động kinh doanh sôi động và các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ. Song song đó, kế hoạch nâng hạng thị trường, cùng dòng vốn ngoại (FDI, FII) tiếp tục đổ vào, giúp nhiều cổ phiếu và nhóm ngành triển vọng thu hút thêm nhà đầu tư trong nước lẫn quốc tế. Ở góc độ doanh nghiệp niêm yết, trong môi trường lãi suất thấp, chi phí vốn giảm sẽ cải thiện lợi nhuận, tạo đà cho giá cổ phiếu và sự phục hồi của thị trường nói chung.

Như vậy, bất động sản và chứng khoán được xem là hai kênh đầu tư hưởng lợi nhiều nhất từ việc bơm thêm thanh khoản vào nền kinh tế. Cùng với quá trình hoàn thiện pháp lý và chính sách vĩ mô theo hướng hỗ trợ, kỳ vọng thị trường sẽ tiếp tục thu hút dòng vốn lớn, nâng cao vòng quay tài sản và góp phần thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn.

Khó có sự bùng nổ về giá tài sản tài chính trong 1-2 năm tới

Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Đầu tư - baodautu.vn, ông Trần Ngọc Báu, CEO Wigroup cho rằng, một khi tiền được bơm ra nền kinh tế, các kênh đầu tư đều hưởng lợi, nhất là các tài sản có tính thanh khoản cao.

f
Ông Trần Ngọc Báu, CEO Wigroup.

Được biết, hiện ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang cân nhắc giảm lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Trước đó, lãi suất tín phiếu cũng được NHNN giảm mạnh từ mức 4% tháng trước xuống chỉ còn 3,1% phiên hôm qua. Ông nhận định như thế nào về động thái này của NHNN?

Việc NHNN giảm lãi suất tín phiếu có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ mức chặn dưới của lãi suất liên ngân hàng, tạo nền tảng để NHNN tiếp tục hạ lãi suất trên kênh cho vay cầm cố giấy tờ có giá. Một hành lang mới thấp hơn sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau với chi phí thấp hơn.

Khi lãi suất liên ngân hàng giảm, chi phí vốn của hệ thống ngân hàng cũng giảm theo, từ đó giúp các ngân hàng có điều kiện tốt hơn trong việc giảm lãi suất cho vay.

Theo ông, liệu NHNN có hạ thêm một số loại lãi suất điều hành khác thời gian tới? Đặc biệt là trần lãi suất tiền gửi và cho vay liệu có cơ hội giảm thêm?

Khả năng NHNN có tiếp tục giảm lãi suất điều hành nữa hay không phụ thuộc chủ yếu vào diễn biến tỷ giá và tình hình kinh tế trong nước.

Nếu tỷ giá duy trì ổn định nhưng tăng trưởng kinh tế chưa đạt kỳ vọng, NHNN có thể tiếp tục hạ lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế. Ngược lại, nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) kéo dài chính sách thắt chặt tiền tệ và kinh tế Trung Quốc suy yếu hơn dự báo, dòng vốn ngoại có thể tiếp tục rút ra, tạo áp lực lên tỷ giá. Khi đó, NHNN sẽ thận trọng hơn trong việc điều chỉnh lãi suất nhằm tránh rủi ro mất giá tiền đồng.

Về trần lãi suất tiền gửi, hiện NHNN chỉ áp dụng đối với tiền gửi dưới 6 tháng. Nếu NHNN điều chỉnh giảm, mức cắt giảm cần từ 0,75% - 1% mới tạo tác động thực sự đến thị trường, do khoảng cách giữa trần lãi suất và lãi suất thực tế vẫn khá lớn.

Năm nay, NHNN đặt mục tiêu tín dụng tăng 16% để phục vụ tăng trưởng GDP trên 8%. Từ năm sau, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng 2 con số, đồng nghĩa tín dụng có thể tăng mạnh 18-20%. Ông đánh giá như thế nào về khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng cũng như khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp?

Về khả năng cung ứng vốn của ngân hàng tôi cho rằng mục tiêu 18-20% thì hệ thống ngân hàng vẫn có thể đáp ứng được, tuy nhiên chắc chắn chất lượng tín dụng sẽ gặp nhiều vấn đề, rủi ro nợ xấu là rất lớn.

Ngoài ra, tỷ lệ đòn bẩy của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng đã rất cao, tỷ lệ tín dụng/GDP đang tiệm cận mốc 130%. Nếu “thúc” tăng trưởng bằng tín dụng thì sẽ càng làm khối doanh nghiệp phụ thuộc hơn vào tín dụng ngân hàng. Theo đó, càng ngày nền kinh tế sẽ càng nhạy cảm hơn trước những biến động vĩ mô tiền tệ.

Tiền sẽ được bơm ra nền kinh tế nhiều hơn giai đoạn tới, theo ông, những kênh đầu tư nào sẽ hưởng lợi?  

Một khi tiền đã được bơm ra nền kinh tế thì tôi cho rằng về ngắn hạn khoảng dưới 3 năm thì kênh đầu tư nào cũng hưởng lợi.

Các tài sản càng thanh khoản cao sẽ hưởng lợi càng nhanh và càng lớn. Chẳng hạn thứ tự thanh khoản của các kênh sẽ là trái phiếu chính phủ, ngoại tệ, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản. Riêng kênh vàng thì liên thông với quốc tế và do giá vàng thế giới chi phối nên việc chúng ta bơm tiền hay không thì giá vàng cũng không chịu ảnh hưởng.

Việc bơm tiền ra nền kinh tế là điều chính phủ muốn nhưng thực tế đạt được hay không sẽ tùy thuộc vào quyết định của hệ thống ngân hàng và dân cư cũng như diễn biến của tỷ giá. Nếu ngân hàng không sẵn sàng đẩy mạnh vòng quay tiền và tỷ giá vẫn áp lực thì mục tiêu khó đạt được.

Trong bối cảnh hiện tại, tôi cho rằng 1-2 năm chưa thể có sự bùng nổ lượng tiền và giá tài sản tài chính một cách mạnh mẽ như chu kỳ 2015-2021.

Việc mở rộng tín dụng có tiềm ẩn rủi ro gì không, thưa ông? Việt Nam cần làm gì để hạn chế các rủi ro này?

Những rủi ro đi kèm với việc mở rộng tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Trước tiên, áp lực thanh khoản và an toàn vốn sẽ gia tăng khi tín dụng tăng trưởng quá nhanh, khiến hệ số an toàn vốn (CAR) suy giảm và nguy cơ nợ xấu leo thang. Đồng thời, dòng vốn bơm mạnh vào nền kinh tế có thể làm gia tăng lạm phát, gây áp lực lên tỷ giá và lãi suất, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Một vấn đề khác cần lưu ý là sự mất cân đối trong cấu trúc tài chính khi nền kinh tế phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, thay vì phát triển các kênh huy động vốn dài hạn như thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp.

Hiện nay, thị trường trái phiếu vẫn phục hồi chậm, trong khi thị trường cổ phiếu gần như đóng băng với rất ít thương vụ lớn trong 5 năm qua. Dòng tiền đầu tư bài bản giảm sút, hàng hóa trên thị trường thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Giải pháp cấp thiết là khơi thông lại hai kênh vốn quan trọng này.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thu hút vốn ngoại, bao gồm FDI, FII, tín dụng và tiền gửi quốc tế. Trong bối cảnh lãi suất trong nước duy trì ở mức thấp, dòng vốn FDI có thể trở thành điểm tựa chính. Nếu Việt Nam tận dụng tốt cơ hội và gỡ bỏ những nút thắt hiện tại, khả năng thu hút dòng vốn này sẽ rất rõ ràng.

Cuối cùng, cần hoàn thiện hành lang pháp lý và tạo điều kiện cho các công ty tài chính, fintech mở rộng hoạt động. Những tổ chức này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn tại các phân khúc thị trường mà ngân hàng truyền thống chưa khai thác hiệu quả, góp phần xây dựng một hệ thống tài chính linh hoạt và bền vững hơn.

Nhà băng kỳ vọng lợi nhuận hàng tỷ USD năm nay

Mùa đại hội cổ đông (ĐHCĐ) ngân hàng đang đến gần, các nhà băng bắt đầu hé lộ kế hoạch kinh doanh 2025, trong đó nhiều nhà băng đưa ra chỉ tiêu lợi nhuận hàng tỷ USD.

Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN đặt ra ở mức 16% năm nay, cao hơn 1% so năm rồi và giới phân tích tài chính dự báo, tín dụng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng 15-16% năm nay nên ngân hàng kỳ vọng lợi nhuận tăng. Thực tế cho thấy, tăng trưởng tín dụng có tín hiệu khả quan ngay từ đầu năm 2025.

Đến ngày 3/2/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 15,65 triệu tỷ đồng, tăng 0,19% so với năm 2024, trong khi cùng kỳ năm 2024, giảm 0,6%. Theo giới phân tích tài chính, xu hướng tăng trưởng tín dụng năm 2025 được dự báo tiếp tục tích cực nhờ vào các yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ, giúp ngân hàng gia tăng doanh thu và lợi nhuận. 

Với tín dụng năm nay được nhận định tích cực hơn khi sức hấp thu vốn của nền kinh tế cải thiện, các ngân hàng cũng đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận cao hơn. Trong năm 2025, Vietcombank đặt mục tiêu tổng tài sản tăng tối thiểu 10%, lợi nhuận trước thuế tăng 5% so với năm trước (tương ứng 44.300 tỷ). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng mục tiêu đạt 16,28%, huy động vốn trên thị trường một điều tiết phù hợp với tăng tín dụng, nợ xấu duy trì dưới ngưỡng 1,5%.

Tương tự, năm 2025, BIDV đặt mục tiêu dư nợ tín dụng theo giới hạn NHNN giao, dự kiến tăng 14%. Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn, đảm bảo thanh khoản, tỷ lệ nợ xấu dưới 1,4%; Lợi nhuận trước thuế riêng ngân hàng phấn đấu tăng 6% đến 10%. Lũy kế cả năm 2024, BIDV lãi trước thuế hơn 31,383 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước đó. Trong khi đó, VietinBank đề ra mục tiêu năm 2025 tăng trưởng tổng tài sản 5-10%. Dư nợ tín dụng tăng trưởng theo phê duyệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Nguồn vốn huy động phù hợp với tốc độ tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 1.8%. Lợi nhuận trước thuế riêng lẻ cũng sẽ theo phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Năm 2024, Vietinbank đạt 31.800 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 27,1% so với năm 2023.

Đối với MB, Ngân hàng đặt mục tiêu tổng tài sản đến cuối năm 2025 tăng trưởng 22% từ 1.080 tỷ đồng lên 1.318 tỷ đồng; dư nợ tín dụng tăng trưởng 26%, dự kiến đạt trên 1 triệu tỷ đồng; huy động vốn dự kiến tăng trưởng 25%. Lợi nhuận trước thuế với mục tiêu tương đối an toàn với mức độ tăng trưởng 8-10% so với mức thực hiện được năm 2024 là trên 28.000 tỷ đồng trước thuế (vượt qua tỷ USD), tỷ lệ nợ xấu tối đa 1,7%, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%. 

VPBank đặt mục tiêu tăng trưởng khoảng 20-25% năm nay. Trước đó, kết thúc năm 2024, VPBank ghi nhận lợi nhuận hợp nhất trước thuế 20.013 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận năm 2025 của ngân hàng có thể đạt 24.000 - 25.000 tỷ đồng, chạm mốc tỷ USD... Trong đó, bán lẻ và SME vẫn là 2 phân khúc chiến lược, nhà băng này đặt mục tiêu tăng trưởng 30-40%. Bên cạnh đó, với FE Credit, lãnh đạo nhà băng này cho biết, quá trình tái cấu trúc tại đây đã diễn ra hơn 1,5 năm và đạt được một số kết quả tích cực trong 2024. Với kỳ vọng sức cầu tín dụng tiêu dùng cải thiện, VPBank dự kiến từ năm 2025, lợi nhuận FE Credit sẽ quay lại mức 3.000 - 4.000 tỷ đồng trước thuế. Năm 2025, Ngân hàng sẽ tạo ra cơ hội cho FE Credit quay trở về bứt tốc với mục tiêu tín dụng ở mức 15%.

Về kế hoạch kinh doanh năm 2025, Giám đốc Tài chính HDBank Phạm Văn Đẩu chia sẽ tại hội nghị nhà đầu tư mới đây, Ngân hàng dự kiến lợi nhuận trước thuế đạt khoảng 20.000 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2024. Đồng thời, HDBank sẽ tiếp nối truyền thống trả cổ tức cao và đều đặn như kế hoạch ĐHCĐ đã thông qua. 

Lãnh đạo HDBank cũng cho biết, sau khi tham gia tái cấu trúc DongABank (đổi tên thành Vikki Bank), được NHNN hỗ trợ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn năm 2024, quản trị tỷ lệ nợ xấu, kiểm soát mức dưới 2%. Định hướng cho năm 2025, ngân hàng này cho biết, đẩy mạnh phân khúc SME và cá nhân tại đô thị loại 2 và nông thôn: khu vực tiềm năng lớn và rủi ro thấp. Vì thế, lợi nhuận trước thuế năm 2025 của HDBank được kỳ vọng đạt trên 20.000 tỷ đồng, tương đương tăng 25% so với kết quả 2024. Tỷ lệ ROE dự kiến đạt 25% và ROA đạt 2%.

Hội đồng quản trị (HĐQT) VIB đề xuất kế hoạch kinh doanh năm 2025 với lợi nhuận trước thuế đạt 11.020 tỷ đồng, tăng 22% so với mức thực hiện của năm 2024. Ngoài ra, VIB đặt mục tiêu tổng tài sản tăng 22%, đạt 600.350 tỷ đồng vào cuối năm 2025, trong đó tổng dư nợ tín dụng tăng 22%, đạt 395.800 tỷ đồng. Huy động vốn đạt 377.300 tỷ đồng, tăng 26% trong khi tỷ lệ nợ xấu tiếp tục kiểm soát dưới 3%.

Eximbank đặt mục tiêu đến cuối năm 2025, tổng tài sản đạt 265.500 tỷ đồng, tăng 10,8%; huy động vốn đạt 206.000 tỷ đồng, tăng 15,5%; dư nợ tín dụng đạt 195.500 tỷ đồng, tăng 16,2%. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng giảm 0,54% xuống 1,99%. Nhà băng này kỳ vọng lợi nhuận trước thuế hợp nhất năm nay đạt 5.580 tỷ đồng, tăng 33,2% so với thực hiện 2024.

Năm 2025, SeABank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt 15%, đảm bảo phù hợp với hạn mức dư nợ tín dụng tối đa theo quy định của NHNN và huy động vốn dự kiến tăng trưởng 16%. Tổng tài sản kỳ vọng sẽ tăng 10%. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng, huy động vốn ở mức hai con số, SeABank kỳ vọng đạt lợi nhuận trước thuế 6.458 tỷ đồng, tăng gần 10% so với kế hoạch năm 2024, tỷ lệ ROE dự kiến đạt 13,8%. 

Khảo sát của Vụ Dự báo, Thống kê (NHNN) đầu năm 2025 cũng cho biết, có hơn 85% tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương trong năm 2025. Bên cạnh đó, vẫn có 9,6% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2025 và 5,3% kỳ vọng lợi nhuận không thay đổi.

Xu hướng tăng trưởng tín dụng năm 2025 được giới phân tích tài chin1hh dự báo, tiếp tục tích cực nhờ vào các yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ, giúp ngân hàng gia tăng doanh thu và lợi nhuận. Đó là các giải pháp của ngành ngân hàng duy trì lãi suất thấp để kích thích nhu cầu tín dụng, hỗ trợ phục hồi kinh tế hậu đại dịch và biến động toàn cầu. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tiếp cận nguồn vốn dễ dàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng tiêu dùng trong các lĩnh vực như vay mua nhà ở, ôtô. 

Theo nhận định của PGS TS Nguyễn Hữu Huân- Đại học kinh tế TP.HCM, mặc dù biên lãi ròng (NIM) của ngân hàng đã giảm so với giai đoạn trước nhưng lợi nhuận vẫn tăng. Các ngân hàng vẫn đang cố gắng điều chỉnh NIM theo hướng giảm dần để hỗ trợ nền kinh tế, thậm chí hy sinh một phần lợi nhuận. Tuy nhiên, ngân hàng cũng là một tổ chức kinh doanh vì lợi nhuận nên thay vì chỉ dựa vào các lời kêu gọi giảm lãi suất cần có chiến lược dài hạn nhằm phát triển thị trường vốn, thay vì chỉ dựa vào vốn tín dụng như hiện nay.

Giải pháp khẩn để bơm thêm vốn vào nền kinh tế

Vướng mắc về xử lý nợ xấu khiến lãi suất khó giảm và khả năng quay vòng vốn ngân hàng chậm lại đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẩn trương tháo gỡ để các ngân hàng đẩy nhanh tốc độ bơm vốn ra nền kinh tế với chi phí thấp hơn.

NHNN đang lấy ý kiến Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu. Dự kiến, Luật sẽ được đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội ngay tại kỳ họp diễn ra vào tháng 5/2025 theo trình tự, thủ tục rút gọn bởi tính cần thiết, cấp bách.

Năm nay, nhu cầu vốn để phục vụ tăng trưởng GDP trên 8% là rất lớn, trong khi các rào cản về xử lý nợ xấu đang cản quá trình bơm vốn của các ngân hàng. Theo NHNN, các vướng mắc về xử lý nợ xấu đang gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng xoay vòng vốn, cũng như tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý của người dân và doanh nghiệp

Trước đó, nhiều ngân hàng cho biết, từ năm 2024 đến nay, tình trạng chây ỳ trả nợ của nhiều khách hàng tăng lên sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực. Quá trình xử lý nợ xấu chậm lại khiến một lượng lớn vốn ngân hàng nằm “chết” trong các tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu. Việc kẹt một lượng vốn lớn trong nợ xấu cũng khiến các ngân hàng khó khăn hơn trong giảm lãi suất.

“Sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực từ ngày 1/1/2024, các tổ chức tín dụng không còn được quyền thu giữ tài sản đảm bảo, chỉ còn cách khởi kiện ra tòa để xử lý tài sản đảm bảo, gây khó khăn trong xử lý nợ xấu. Tình trạng khách hàng cố tình chây ỳ và bất hợp tác với ngân hàng trong xử lý tài sản đảm bảo tăng lên”, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết.

Không chỉ “vướng” về thu giữ tài sản đảm bảo, các ngân hàng còn rất khó khăn về xử lý nợ xấu liên quan đến các vụ án. Một lượng vốn ngân hàng bị kẹt do tài sản đảm bảo đang là vật chứng trong các vụ án hình sự hoặc là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

NHNN khẳng định, xử lý những vướng mắc về thể chế liên quan đến công tác xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Cần phải kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, tạo thuận lợi không chỉ cho chính các ngân hàng trong việc khơi thông “cục máu đông nợ xấu,” mà còn tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng với chi phí phù hợp.

Ông Đặng Khắc Vỹ, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng VIB cũng khẳng định, để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, cần phải hoàn thiện hành lang pháp lý của ngân hàng. Việc không luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 như hiện nay gây rủi ro rất lớn cho các ngân hàng. Theo đó, nếu Nghị quyết này được luật hóa, các ngân hàng tin tưởng quyền chủ nợ được bảo đảm, sẽ mạnh dạn cho vay với lãi suất thấp hơn, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, người dân sẽ được nâng cao.

Luật Các tổ chức tín dụng 2024 không luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản đảm bảo, không quy định về kê biên tài sản đảm bảo của bên phải thi hành án và quy định về hoàn trả tài sản đảm bảo là vật chứng trong vụ án hình sự. Theo NHNN, việc này khiến quá trình xử lý nợ xấu bị kéo dài.

“Khi không có công cụ hữu hiệu để xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo gắn liền với khoản nợ xấu, trong thời gian tới, việc xử lý nợ xấu nói chung và xử lý tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu nói riêng bị chậm trễ, từ đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng, cũng như có thể hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng là doanh nghiệp và người dân”, NHNN khẳng định.

Ngoài ra, theo NHNN, hoạt động ngân hàng khá đặc thù (huy động vốn và cho vay có kỳ hạn về trả nợ), nếu áp dụng quy trình xử lý thông thường như giao dịch vay dân sự (khởi kiện và chờ thi hành án), thì sẽ rất mất thời gian. Điều này dẫn đến ngân hàng không có khả năng hoàn trả tiền gửi cho người gửi tiền khi được yêu cầu, làm phát sinh các khủng hoảng tài chính theo hiệu ứng domino.

Để gỡ các khó khăn về xử lý nợ xấu, trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14, NHNN đề xuất 3 chính sách. Đó là luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản đảm bảo; luật hóa quy định về kê biên tài sản đảm bảo của bên phải thi hành án; luật hóa quy định về hoàn trả tài sản đảm bảo là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản đảm bảo là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, việc không luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 vào Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã tạo khoảng trống pháp lý lớn trong xử lý nợ xấu. Do đó, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ là rất cấp bách, tránh “cục máu đông” ùn ứ trở lại.

Cũng theo các chuyên gia, dư luận đang có cái nhìn định kiến về hoạt động thu giữ tài sản đảm bảo của ngân hàng. Tuy nhiên, muốn kinh tế phát triển, quyền lợi của chủ nợ và người đi vay cần được cân bằng. Việc bảo vệ quyền chủ nợ sẽ giúp các ngân hàng yên tâm bơm vốn ra nền kinh tế.

Phát hành trái phiếu vắng bóng tháng 2/2025, lãi suất thấp kích thích doanh nghiệp sớm phát hành trở lại

Mặc dù nhận định mặt bằng lãi suất thấp sẽ hỗ trợ thị trường TPDN song chuyên gia cũng cảnh báo, nếu các kênh tài sản khác tăng giá thì sức hút của thị trường TPDN sẽ bị sụt giảm.

Theo dữ liệu tổng hợp từ HNX và SSC, tính đến ngày công bố thông tin 28/02/2025, chưa có đợt phát hành TPDN nào được ghi nhận trong tháng 2 năm 2025. Trong tháng 1/2025 có 4 đợt phát hành TPDN ra công chúng với tổng giá trị đạt khoảng 5.554 tỷ đồng.

Trong tháng 2, các doanh nghiệp đã mua lại 2.592 tỷ đồng trái phiếu. Lũy kế 2 tháng đầu năm, tổng giá trị trái phiếu đã được mua lại trước hạn đạt 15.976 tỷ đồng, tăng 13.1% so với năm 2024. bất động sản là nhóm ngành dẫn đầu, chiếm khoảng 67,1% tổng giá trị mua lại trước hạn (tương ứng khoảng 10,717 tỷ đồng).

Theo Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam, trong 10 tháng còn lại của năm 2025, tổng giá trị trái phiếu sẽ đến hạn là 192.303 tỷ đồng. Trong đó, 54,6% giá trị trái phiếu sắp đáo hạn thuộc nhóm bất động sản với 105.039 tỷ đồng, theo sau là nhóm ngân hàng với 41.166 tỷ đồng (chiếm 21,4%).

Mặc dù phát hành TPDN vắng bóng trong tháng 2/2025 song theo nhận định của ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc FiinRatings, năm nay thị trường TPDN sẽ tăng trưởng hai con số trong năm 2025. Động lực tăng trưởng cao trong năm 2025 không chỉ đến từ các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty tài chính mà còn từ các lĩnh vực doanh nghiệp lớn như bất động sản nhà ở, năng lượng và hạ tầng với những biện pháp tháo gỡ chính sách, pháp lý và nhu cầu vốn thực tế mà chúng tôi quan sát được hiện nay.

Chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán VCBS cũng tin tượng lượng phát hành TPDN sẽ khả quan hơn năm nay. Mặt bằng lãi suất thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu với chi phí thấp hơn, tái cơ cấu vốn. Khối lượng phát hành vẫn sẽ được dẫn dắt bởi trái phiếu ngân hàng; trong khi các doanh nghiệp bất động sản cũng đang dần lấy lại niềm tin nhà đầu tư.

Dù vậy, chuyên gia dự báo sẽ có sự khác biệt về khả năng phát hành trái phiếu giữa nhóm tổ chức phát hành danh tiếng, và nhóm tổ chức có lịch sử chậm trả lãi, gốc.

Về phía cầu, nhà đầu tư tổ chức vẫn sẽ chiếm ưu thế chủ đạo trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Các nhà đầu tư cá nhân quy mô vốn nhỏ sẽ có xu hướng ưu tiên lựa chọn sản phẩm trái phiếu phát hành ra công chúng với các nhà phát hành có xếp hạng tín nhiệm.

Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất huy động sẽ được duy trì ở mức thấp trong năm nay, nhà đầu tư có xu hướng chuyển dịch vốn sang các kênh đầu tư đem lại mức sinh lời cao hơn, điều này góp phần hỗ trợ thị trường TPDN.

Mặc dù vậy, chuyên gia phân tích VCBS cũng lưu ý tới xu hướng tăng giá của các kênh tài sản khác (gồm cả kênh truyền thống và phi truyền thống) có thể làm giảm sức hút của thị trường TPDN đối với nhà đầu tư. 

Ngân hàng mong được “chia lửa” cung ứng vốn

Tín dụng đã sẵn sàng phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng cao, song mức độ phụ thuộc ngày càng lớn của nền kinh tế vào vốn ngân hàng đang làm dấy lên nhiều lo ngại.

Hai tháng đầu năm, tín dụng hầu như không tăng trưởng (tính tới ngày 18/2/2025 mới tăng 0,02%) khiến áp lực thanh khoản với hệ thống hiện nay không lớn. Tại thời điểm này, ổn định lãi suất, thậm chí giảm lãi suất không phải là vấn đề khó với hệ thống ngân hàng. Tuy vậy, nửa cuối năm, khi cầu tín dụng tăng, cộng thêm áp lực tỷ giá, việc ổn định lãi suất sẽ khó hơn khi các nhà băng đứng trước áp lực huy động vốn để phục vụ nhu cầu tăng trưởng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, các ngân hàng đang gặp áp lực lớn trong việc vừa phải huy động lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, vừa phải ổn định lãi suất. “Nhu cầu vốn hỗ trợ nền kinh tế rất lớn, trong khi thị trường vốn (trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu…) hiện chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ được nhiều cho ngành ngân hàng trong nhiệm vụ cung ứng vốn cho nền kinh tế..., khiến ngành ngân hàng gặp rất nhiều áp lực”, ông Hùng cho biết.

Theo các chuyên gia kinh tế, năm nay, nếu GDP tăng trên 8%, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể nới mục tiêu tăng trưởng tín dụng lên 18%. Tín dụng giai đoạn tới có thể tăng lên trên 20% nếu đặt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 2 con số. Trong khi đó, WB cho rằng, Việt Nam đang nằm trong nhóm nước có tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP cao nhất thế giới và nhiều lần cảnh báo về nguy cơ mất cân bằng tài chính, nếu nền kinh tế tiếp tục phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng.

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế (Ban Kinh tế Trung ương) cho biết, nền kinh tế đang thiếu sự đa dạng của các kênh huy động vốn, dẫn tới sự phụ thuộc quá lớn vào tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp khó tiếp cận vốn.

Hiện quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta mới đạt khoảng 10-11% GDP. Trong khi đó, theo Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội, đến năm 2025, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP...

Năm 2024, thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi khá mạnh mẽ với tổng lượng phát hành lên tới gần nửa triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, gần 70% lượng trái phiếu phát hành lại đến từ lĩnh vực ngân hàng. Nói cách khác, dù trên thị trường vốn hay tín dụng, ngân hàng vẫn là “tay chơi” chính, sự phụ thuộc của nền kinh tế với ngân hàng không giảm, thậm chí còn tăng. 

Một trong những rủi ro khi quy mô tín dụng tăng nhanh, theo các chuyên gia, là vấn đề nợ xấu. Điều này càng đáng lo khi hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu có nhiều hạn chế và tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng giảm mạnh. Tính đến cuối năm 2024, chỉ còn 4 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%.

Trong bối cảnh này, các chuyên gia khuyến nghị, NHNN và các ngân hàng thương mại phải cẩn trọng trong điều tiết tín dụng, kiểm soát chặt dòng vốn chảy vào đầu cơ, nếu không sẽ dẫn tới bong bóng tài sản, gia tăng nợ xấu.

Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, để tạo điều kiện khơi thông tín dụng, NHNN cần sớm hoàn thiện Dự thảo luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu để trình Chính phủ, Quốc hội, giúp ngân hàng yên tâm cho vay.

Về lâu dài, các ngân hàng và chuyên gia kiến nghị, cần có những giải pháp đa dạng hóa các kênh huy động vốn, đặc biệt là kênh trái phiếu doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinRatings cho rằng, năm 2025, phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ tăng mạnh hơn năm 2024 do cầu vốn của doanh nghiệp gia tăng. Các quy định mới có hiệu lực sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn quay trở lại thị trường trái phiếu. Tuy vậy, thị trường cần thêm thời gian để hồi phục.

Theo ông Thuân, cấu trúc lý tưởng nhất của thị trường trái phiếu doanh nghiệp là ngân hàng chiếm 40% lượng phát hành, bất động sản và năng lượng chiếm 30%, còn lại là các ngành sản xuất, công nghệ… Tuy nhiên, sự chuyển đổi này cần nhiều thời gian (hiện gần 70% trái phiếu phát hành là của các tổ chức tín dụng). Nói cách khác, chưa dễ giảm ngay sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tín dụng ngân hàng.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN sẵn sàng điều chỉnh room tăng trưởng tín dụng nếu lạm phát thấp. Để hỗ trợ nguồn vốn tăng trưởng tín dụng ở mức cao, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị liên quan rà soát hành lang pháp lý đối với các kênh bơm tiền ra để sẵn sàng bơm tiền ra khi cần thiết.

Dù vậy, Thống đốc đề nghị, muốn tăng trưởng cao, nền kinh tế cần đa dạng hóa kênh huy động vốn, huy động tối đa cả nguồn vốn trong và ngoài nước vì bản thân nền kinh tế Việt Nam tiết kiệm chưa đủ bù đắp nhu cầu đầu tư. Ngoài ra, cần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cải cách cơ chế, giảm tầng lớp trung gian, rút ngắn thời gian phê duyệt Dự án, tháo gỡ khó khăn cho các dự án bất động sản… Những giải pháp này sẽ tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay vốn, giúp ngân hàng có thêm nguồn để cho vay, cũng như có điều kiện để giảm lãi vay.

Quỹ ngoại thoái vốn tại nhiều nhà băng Việt
Một số quỹ ngoại bán ra cổ phiếu, thoát bớt vốn ở ngân hàng trong thời gian gần đây. Ở nhiều ngược lại, một số nhà băng hút tiếp vốn...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư