
-
VNG có lãi trở lại; Hoàng Anh Gia Lai thoát lỗ lũy kế; Sơn Hà lãi quý II gấp 6 lần
-
Đại học FPT và Dream Lab ứng dụng trí tuệ nhân tạo phát triển doanh nhân khởi nghiệp
-
ETC nhận danh hiệu Top 10 Công ty Công nghệ uy tín năm 2025
-
Công bố Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2024
-
Liên kết thực chất, doanh nghiệp sẽ đưa Bắc Trung Bộ thành vùng động lực phát triển mới -
Toàn Phát Group tham gia dịch vụ Halal logistics
![]() |
Từ hàng chục tỷ USD tiệm cận tới hàng trăm tỷ USD
Giai đoạn phát triển thứ 4 trong chu kỳ 12 năm, từ 2018 - 2030, Viettel đề ra mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng 10-15%. Với mức tăng trưởng này, ước tính đến năm 2030, doanh thu của Tập đoàn Viettel có thể đạt tới 85 tỷ USD. Cụ thể, theo công bố của Viettel, tỷ lệ cơ cấu doanh thu viễn thông và công nghệ thông tin chiếm 55%; công nghiệp công nghệ cao chiếm 25% (xuất khẩu chiếm tỷ trọng trên 50%), lĩnh vực đầu tư vào đổi mới, sáng tạo chiếm 10% và lĩnh vực truyền thống là 10%.
80 tỷ USD, con số này có thể khiến nhiều người tỏ ra hoài nghi về tham vọng quá lớn của Viettel, nhưng nếu nhìn vào những tầm nhìn kinh doanh toàn cầu và và công nghệ 4.0 thì con số này sẽ không quá xa vời.
Trước hết, bước vào giai đoạn 4.0, Viettel có khá nhiều thuận lợi khi sở hữu nguồn lực và thành tựu của giai đoạn 3.0 trước đó. Thị trường quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp mà Viettel đang có tới 11 thị trường trong nước và nước ngoài với tổng dân số 240 triệu người (giữ vị trí số 1 về thị phần tại 5/10 thị trường), trải rộng khắp 3 châu lục (châu Á, châu Phi và châu Mỹ), tức quy mô lớn gấp 3 lần Việt Nam.
Đến nay, 8/11 quốc gia mà Viettel đầu tư đã kinh doanh có lãi, có 3 thị trường đã hoàn vốn đầu tư (Lào, Campuchia, Đông Timor) và đứng số 1 tại thị trường về mạng lưới viễn thông, đã thu về gấp 4 - 5 lần giá trị vốn đầu tư. Năm 2017, doanh thu của Viettel ở nước ngoài gần 1,7 tỷ USD, tăng hơn 38% so với năm 2016, gấp hơn 9 lần so với mức tăng trưởng bình quân của ngành viễn thông toàn cầu.
Đầu tư quốc tế đã được xác định là 1 trụ cột chiến lược, nên mục tiêu của Viettel là mở rộng thị trường đầu tư đạt quy mô dân số 400 - 500 triệu dân và con số này có thể còn cao hơn nữa 600 – 800 triệu dân. Việc đẩy mạnh đầu ra nước ngoài là hướng đi chiến lược cho sự trường tồn của Viettel trong tương lai, cũng như duy trì mức tăng trưởng và mục tiêu doanh thu trước sự bão hòa của thị trường trong nước, nguồn doanh thu truyền thống sụt giảm.
Cơ cấu lại doanh thu, lách qua cửa hẹp
Một điểm nhấn trong cơ cấu doanh thu của Viettel giai đoạn 4.0 chính là từ lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Từ một doanh nghiệp thuần túy kinh doanh dịch vụ viễn thông, đến nay Viettel đã bổ sung 3 ngành công nghiệp hoàn toàn mới, mở rộng không gian phát triển đó là Ngành công nghiệp an ninh mạng, Ngành công nghiệp điện tử viễn thông và Ngành công nghiệp quốc phòng công nghệ cao.
Mục tiêu được Viettel xác định rõ: Năm 2030 lọt top 50 doanh nghiệp lớn nhất thế giới về công nghiệp quốc phòng; top 20 về điện tử viễn thông và top 50 về công nghiệp an ninh mạng. Riêng với lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, tập đoàn sẽ đẩy mạnh đầu tư cho các công nghệ lưỡng dụng đặc thù, vũ khí chiến lược, vũ khí công nghệ cao ít quốc gia trên thế giới có thể sở hữu công nghệ cũng như năng lực sản xuất như UAV, tàu ngầm mini, rada…
Để hiện thực hóa chiến lược mới, lãnh đạo Viettel cho hay, nhiều năm qua tập đoàn dầu tư và đến nay đã có trong tay 5 Viện Nghiên cứu lưỡng dụng, 2 công ty về điện tử và cơ khí, 2 Trung tâm về Không gian mạng và An ninh mạng với 5.000 lao động và ngân sách cho nghiên cứu phát triển lên tới 4.000 - 4.500 tỷ đồng/năm.
Chỉ riêng hai ngành công nghiệp điện tử viễn thông và công nghiệp vũ khí công nghệ cao, Viettel đã có doanh thu 12.000 tỷ đồng, tương đương với lĩnh vực đầu tư quốc tế đầu tư trong 10 năm qua. Nhiều sản phẩm của Viettel trong lĩnh vực này đã được trang bị trong quân đội, và được đánh giá có tính năng tương đương với sản phẩm của NATO, phù hợp với khả năng tác chiến của quân đội.
Đối với lĩnh vực dân sự, Viettel đã nghiên cứu và sản xuất thành công và đưa vào mạng lưới viễn thông của tập đoàn tại Việt Nam cùng các thị trường đã đầu tư những thành phần quan trọng nhất của hạ tầng mạng viễn thông. Cụ thể, Viettel đã tự xây dựng được hệ thống tính cước trực tuyến (vOCS 3.0), Tổng đài thoại (vMSC), Tổng đài chuyển mạch gói 4G (vEPC), Tổng đài IP cung cấp đa dịch vụ (vIMS), Hệ thống quản lý thuê bao (vHSS),…
Trong đó, đáng chú ý, hệ thống tính cước thời gian thực của Viettel (được triển khai tại 6 quốc gia, quản lý 140 triệu thuê bao) có khả năng quản lý 24 triệu thuê bao/site, gấp đôi so với các hệ thống khác trên thế giới. Việc triển khai thành công hệ thống vOCS đã đưa Việt Nam thành một trong những quốc gia sản xuất OCS lớn nhất toàn cầu vì trên thế giới hiện chỉ có khoảng 20 nhà cung cấp có khả năng xây dựng hệ thống tính cước thời gian thực, trong đó 3 nhà cung cấp lớn nhất là Amdocs, Ericsson và Huawei.
Về thiết bị truy nhập, đầu cuối, Viettel đã tự nghiên cứu, xây dựng thành công trạm phát sóng Marco cell 4G (eNodeB), Trạm phát sóng Small cell 4G, Thiết bị truy nhập quang (Site router),… Đây được xem là một bước đột phá mới của Viettel. Thống kê cho thấy, hiện trên thế giới chỉ có 5 nhà cung cấp thiết bị mạng viễn thông. Với việc làm chủ các công nghệ thiết bị truy nhập 4G, Viettel đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ đạt 70% hạ tầng viễn thông do tập đoàn làm chủ từ công tác nghiên cứu, thiết kế đến sản xuất và không phụ thuộc vào bất kỳ nhà cung cấp nào và sẽ mang về nguồn ngoại tệ ổn định cho Viettel.
Đây là những “khe cửa hẹp” đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn nhưng sẽ mang lại nguồn doanh thu mới với lợi nhuận tỷ USD như trong giai đoạn 4.0 mà Viettel vừa công bố.
Trong lịch sử phát triển, Viettel luôn tạo ra kỳ tích, từ doanh thu tỷ đồng, Viettel đã đạt tới tỷ USD. Doanh thu tăng trưởng 2,7 lần (từ 92.000 tỷ lên 252.000 tỷ) và vốn chủ sở hữu tăng 4,5 lần (từ 28.600 tỷ lên 128.000 tỷ) chỉ trong 8 năm. 80 tỷ USD là con số thử thách cho Tập đoàn Viettel.
Nhưng chỉ có con đường này, Viettel mới có thể trở thành Tập đoàn công nghệ kinh doanh toàn cầu, tiếp tục duy trì vị thế dẫn dắt số 1 Việt Nam về Viễn thông và Công nghiệp công nghệ cao, trở thành top 150 doanh nghiệp lớn nhất thế giới vào năm 2030, trong đó top 10 về Viễn thông và CNTT; Top 20 về Công nghiệp Điện tử Viễn thông; Top 50 về Công nghiệp an toàn, an ninh mạng.

-
Công bố Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2024 -
Liên kết thực chất, doanh nghiệp sẽ đưa Bắc Trung Bộ thành vùng động lực phát triển mới -
Toàn Phát Group tham gia dịch vụ Halal logistics -
ADB, JICA tài trợ 12 triệu USD cho Công ty Nước Thủ Dầu Một mở rộng nhà máy nước Bàu Bàng -
Thi đua là động lực phát triển bền vững của Petrovietnam -
Thuế Hà Nội công bố danh sách nợ thuế, có doanh nghiệp nợ gần 80 tỷ đồng -
Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận của ACV giảm gần 20%
-
Cathay Life Việt Nam được vinh danh Top 10 Công ty Bảo hiểm nhân thọ uy tín năm 2025
-
Vinatex đặt mục tiêu tăng gấp đôi lợi nhuận hợp nhất vào năm 2030
-
Chủ tịch Công đoàn TKV Lê Thanh Xuân kiểm tra sản xuất, thăm, tặng quà công nhân lao động
-
Vietfood & Beverage - Propack Vietnam 2025: Triển lãm quốc tế chuyên ngành F&B lớn nhất tại Việt Nam
-
SeABank thông báo mời thầu
-
Legacy Hill: Vận hành chuyên nghiệp bởi Atania Hospitality, sống an nhiên và đầu tư bền vững