Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 27 tháng 04 năm 2024,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua:
Lãi vay vẫn đắt đỏ; Ngân hàng nặng gánh chi phí trả lãi; Ẩn số chính sách tiền tệ năm 2024
T.L - 12/11/2023 10:00
 
Nhiều ngân hàng khó hoàn thành mục tiêu lợi nhuận cả năm, chi phí trả lãi ăn mòn lợi nhuận, rã băng tín dụng bằng nhà giá rẻ, xử lý ngân hàng kém còn nhiều vướng mắc... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.
TIN LIÊN QUAN

Nặng gánh trả lãi, ngân hàng bị ăn mòn lợi nhuận

Vốn dư thừa, thu nhập từ hoạt động cho vay tăng thấp, nhưng nhiều ngân hàng vẫn đang phải “gánh” khoản chi phí trả lãi tiền gửi quá lớn, khiến lợi nhuận bị ăn mòn, thậm chí tăng trưởng âm.

Báo cáo tài chính quý III/2023 vừa công bố cho thấy, rất nhiều ngân hàng đang bị chi phí trả lãi tiền gửi đè nặng. Nhiều ngân hàng vẫn có thu nhập từ lãi (từ hoạt động cho vay), song do chi phí trả lãi tăng gấp 3 - 4 lần, nên lãi thuần tăng trưởng thấp, thậm chí còn suy giảm.

Đơn cử, tín dụng của VPBank tính đến cuối tháng 9/2023 tăng tới 19%, song thu nhập lãi thuần không tăng tương ứng (chỉ tăng 11,7%). Lý do là, trong 9 tháng đầu năm, thu nhập lãi của ngân hàng tăng 23%, song chi phí trả lãi tăng tới 96%.

Tương tự, tại Techcombank, cho vay khách hàng tăng 13%, song thu nhập lãi thuần giảm hơn 14%, vì trong kỳ, thu nhập từ lãi của ngân hàng này tăng 30%, trong khi chi phí lãi tăng tới 145,4%.

Tình cảnh thu nhập từ lãi tăng thấp, trong khi chi phí trả lãi tăng cao ngất ngưởng diễn ra tại nhiều nhà băng. Tại ACB, thu nhập từ lãi tăng hơn 38%, còn chi phí lãi tăng gần 81%. Tại HDBank, thu nhập từ lãi tăng 57,5%, trong khi chi phí lãi tăng tới 113%, khiến thu nhập lãi thuần chỉ tăng vỏn vẹn 12%...

Bên cạnh đó, trong 9 tháng đầu năm nay, không ít ngân hàng rơi vào cảnh tín dụng tăng trưởng thấp, song huy động vốn tăng trưởng cao. Một số ngân hàng có huy động vốn tăng trưởng cao là HDBank (tăng 58,3%), VPBank (tăng 39%), NamABank (tăng 21%), SeABank (tăng 22%), VietBank (tăng 24,9%), Techcombank (tăng 14,1%), BacABank (tăng 18,2%), VietABank (tăng 24,9%)…

Áp lực giảm lãi vay của các ngân hàng vẫn rất lớn, trong khi nguồn vốn huy động với lãi suất cao đầu năm nay của một số ngân hàng vẫn còn tồn dư. Vì vậy, nhiều ngân hàng đang nỗ lực kéo giảm mặt bằng lãi suất huy động để giảm chi phí bình quân vốn.

Hiện chỉ còn vài ngân hàng giữ lãi suất huy động 6 - 6,1%/năm, áp dụng với tiền gửi online. Mức lãi suất huy động cao nhất hiện nay phổ biến là 5 - 5,5%/năm. Từ đầu tháng 11 này, thêm nhiều ngân hàng như Sacombank, ACB, BacABank, KienlongBank… tiếp tục hạ lãi suất huy động.

Nhiều lãnh đạo ngân hàng kỳ vọng, chi phí vốn sẽ giảm từ giữa quý IV/2023, bởi 4 lần giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước bắt đầu “ngấm” vào giá vốn.

Trả lời câu hỏi của nhà đầu tư về chi phí vốn tại buổi gặp gỡ nhà đầu tư cách đây vài tháng, lãnh đạo VPBank cho biết, chi phí vốn của Ngân hàng cần thời gian để điều chỉnh, khi danh mục cho vay cũ với kỳ hạn 6 - 12 tháng bắt đầu đáo hạn và dần thay thế bằng các khoản vay mới có lãi suất thấp hơn, được giải ngân trong giai đoạn lãi suất bắt đầu hạ nhiệt sau các lần điều chỉnh lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước.

Đa phần biên lợi nhuận (NIM) của các ngân hàng đều sụt giảm trong 9 tháng đầu năm. Chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán VNDirect kỳ vọng, chi phí vốn sẽ giảm mạnh hơn trong thời gian tới. Tuy vậy, việc giảm giá vốn chưa tác động ngay lên NIM của ngân hàng, bởi tuy giá vốn giảm, song ngân hàng cũng phải giảm lãi suất cho vay để kích cầu tín dụng.

Mới đây, Agribank công bố giảm thêm lãi suất cho vay đối với khách hàng hiện hữu, áp dụng từ ngày 1/11/2023. Như vậy, trong 2 tháng cuối năm 2023, Agribank giảm 3 - 4% lãi suất cho vay với khách hàng hiện hữu.

Không chỉ nhóm ngân hàng “Big4” (Vietcombank, BIDV, AgriBank, VietinBank), mà các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân cũng được chỉ đạo ráo riết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay.

Phó thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước, ông Đào Minh Tú cho hay, Ngân hàng Nhà nước vừa tổ chức Hội nghị toàn ngành với 35 ngân hàng thương mại lớn, chiếm tỷ trọng chính trong hoạt động cho vay của nền kinh tế. Tại hội nghị, Ngân hàng Nhà nước đã “điểm danh” rõ những ngân hàng còn duy trì lãi suất cho vay cao và yêu cầu tìm giải pháp giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế.

Mặc dù vậy, lãi suất không còn là rào cản lớn nhất với tín dụng hiện nay. PGS-TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh, nền kinh tế đang rơi vào tình trạng “ngân hàng thừa tiền, doanh nghiệp đói vốn”. Nguyên nhân là bởi, doanh nghiệp không hấp thụ nổi vốn, không thể vay được vốn và cũng không biết vay vốn để làm gì.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nguyên nhân khiến tín dụng đóng băng thời điểm này không phải do lãi suất, mà do cầu vốn giảm sút và do ngân hàng đang khủng hoảng niềm tin. Ngân hàng thừa tiền cũng không dám cho doanh nghiệp vay, bởi “sức khỏe” của doanh nghiệp đang suy yếu, không có đầu ra, không chứng minh được năng lực trả nợ.

Để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, giới chuyên gia khuyến nghị cần có thêm các chính sách hỗ trợ tài khóa, tăng giải ngân đầu tư công, hồi phục thị trường bất động sản

Lãi suất cho vay chưa thực sự rẻ

Chi phí huy động vốn đã giảm mạnh theo lãi suất huy động, nhưng lãi suất cho vay vẫn giảm tương đối chậm. Các gói vốn giá rẻ được nhiều ngân hàng tung ra, song chỉ áp dụng trong thời gian ngắn.

Lãi suất huy động của các ngân hàng vẫn đang trên đà giảm. Hiện mức lãi suất huy động cao nhất tại hầu hết các nhà băng đều dưới 6%/năm. Mức lãi suất 5,5 - 5,6%/năm áp dụng cho kỳ hạn 6 tháng - 24 tháng, còn với kỳ hạn dưới 6 tháng, đều lùi về dưới 4%/năm. Thậm chí, lãi suất tiền gửi ở nhiều ngân hàng cổ phần còn thấp hơn lãi suất của nhóm “Big4” (Vietcombank, BIDV, AgriBank, Vietinbank).

Cụ thể, ngày 7/11, VPBank, VIB công bố biểu lãi suất mới, giảm ở nhiều kỳ hạn. Lãi suất tiết kiệm online của VIB kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng lần lượt là 3,8%/năm và 4%/năm; lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng và 24 tháng giảm thêm 0,1 điểm phần trăm. Tại VPBank, lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng còn 3,7%/năm, lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng còn 3,8%/năm.

Lãi suất huy động đã giảm mạnh, song tốc độ giảm lãi suất cho vay vẫn còn khá chậm. Giám đốc khối khách hàng cá nhân của một ngân hàng lý giải, do từ đầu năm nay đến nay, tăng trưởng tín dụng toàn ngành không cao, các ngân hàng chưa thể tiêu thụ hết nguồn vốn huy động giá cao từ cuối năm 2022 và quý đầu năm 2023, nên dự kiến phải đến hết quý I/2024, mặt bằng lãi suất cho vay mới trở về mức trước đại dịch.

Thời gian gần đây, các ngân hàng liên tiếp tung ra nhiều gói vốn giá rẻ, song cũng chỉ ưu đãi trong thời gian 6 tháng đến 1 năm.

PvcomBank áp dụng mức lãi suất cho vay mua nhà 9%/năm trong 6 tháng đầu hoặc 10%/năm trong 12 tháng đầu, thời gian vay tối đa 25 năm với nhiều phương án trả nợ, cho phép ân hạn nợ gốc.

Lãi suất cho vay mua bất động sản tại Techcombank trong 6 tháng đầu là 8,5%/năm, trong 1 năm đầu là 9%/năm. ACB cho vay mua nhà với lãi suất trong năm đầu tiên khoảng 8%/năm; lãi suất thả nổi từ năm thứ 2 được tính bằng lãi suất cơ sở cộng với biên độ 3%.

Đặc biệt, tại SeABank, mức lãi suất cho vay mua nhà áp dụng từ nay đến cuối năm 2023 chỉ từ 4,9%/năm, với thời gian cho vay lên đến 35 năm và không giới hạn về hạn mức. Hết thời hạn ưu đãi, mức lãi suất khoảng 11 - 12%/năm.

Các ngân hàng có vốn nước ngoài cũng không đứng ngoài cuộc. Shinhan Việt Nam cho vay mua nhà với lãi suất 8,3%/năm áp dụng trong 6 tháng đầu và 9,7%/năm trong các năm sau đó; hoặc 8,5%/năm trong năm đầu; 9,3%/năm trong 2 năm đầu; 9,5%/năm trong 3 năm đầu...

Với khách hàng doanh nghiệp, tuy lãi suất cho vay đã giảm về mức 7 - 8%/năm và ưu đãi chỉ còn khoảng 6 - 7%/năm cho lĩnh vực xuất khẩu, nhưng cầu vốn của khách hàng rất chậm.

Thực tế cho thấy, hiện nay, nhu cầu vốn của doanh nghiệp chưa cao, vì sức tiêu thụ của thị trường còn yếu, đầu ra gặp khó.

Thông tin được Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng công bố tại Quốc hội đầu tuần này, tính đến cuối tháng 10, tín dụng toàn ngành mới tăng 7,1% so với cuối năm 2022. Sau hơn 3/4 chặng đường của năm 2023, kết quả này mới đạt 50% so với kế hoạch.

Nguyên nhân chủ yếu khiến tín dụng tăng chậm được NHNN chỉ ra là: cầu tín dụng thấp do doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan (đầu tư, sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng đều giảm). Bên cạnh đó, NHNN cho rằng, tổ chức tín dụng không thể hạ được chuẩn tín dụng do phải đảm bảo an toàn hệ thống; dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước trong những năm gần đây giảm sút về tốc độ, quy mô, do ít phát sinh Dự án lớn...

Các chuyên gia của HSBC nhận định, tăng trưởng tín dụng năm nay có thể chỉ đạt khoảng 12%, do thị trường bất động sản trầm lắng, xuất khẩu giảm tốc, hoạt động sản xuất gặp khó.

Theo TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn tài chính (Trường đại học kinh tế TP.HCM), nếu tình trạng “thừa tiền” trong ngân hàng tiếp tục kéo dài, cầu vốn của doanh nghiệp không có, thì lãi suất có khả năng giảm thêm, nhất là với lãi suất cho vay, vì ngân hàng buộc phải cho vay lãi suất thấp nhằm đảm bảo chi phí.

Ẩn số nào có thể làm đảo chiều chính sách tiền tệ năm 2024

Các chuyên gia nhận định, chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ duy trì năm 2024, song có thể đảo chiều bất kỳ lúc nào khi chịu áp lực hai yếu tố: tỷ giá và lạm phát.

Ông Nguyễn Xuân Thành, Chuyên gia kinh tế, Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright cho rằng, chính sách tiền tệ năm 2024 - 2025 tiếp tục nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu cả nhiệm kỳ. Tuy vậy, để làm được hay không lại phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

“Hiện tại, tất cả ngân hàng trung ương đều điều hành chính sách theo hướng “dò đường” với tự tin rất thấp, khả năng mắc sai lầm rất cao, kể cả Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Năm nay, tín dụng có thể tăng 11% so với mục tiêu 14%, mục tiêu của năm sau là tăng 14 - 15% để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng 6,5% trở lên. Việc duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng phải duy trì, nhưng hoàn toàn có thể đảo chiều khi chịu áp lực hai yếu tố: tỷ giá và lạm phát”, chuyên gia này nhận định.

Theo ông Thành, trong điều kiện bình thường, Ngân hàng Nhà nước sẽ cố gắng không tăng lãi suất điều hành, nhưng nếu xuất hiện sức ép thì buộc phải thay đổi để thích ứng. Điều này phải quan sát từng tháng năm 2024 thì mới có thể phán đoán được.

Theo nhận định của các chuyên gia, tăng trưởng GDP năm nay có thể đạt 5 - 5,5%, do đó, mục tiêu 6 - 6,5% cho năm 2024 rất nhiều bất trắc. Vấn đề của thị trường bất động sản chưa thể giải quyết được trong năm 2024, nếu kinh tế toàn cầu xấu đi và chính sách tiền tệ nới lỏng thì phải xem xét lại. Tuy vậy, nhìn chung năm 2024 sẽ là năm bớt khó khăn hơn năm nay.

“Năm 2024 sẽ là một năm khó khăn. Song, những cái gì khó quá đã ở lại sau lưng rồi, khả năng đạt được 6% - 6,5% trong giữa năm sau là có khả năng”, ông Trần Hoài Nam, Phó tổng Giám đốc HDBank tin tưởng.

Theo ông Nam, không có dư địa tăng lãi suất năm tới. Hiện các ngân hàng thương mại đều thừa thanh khoản.

“Lãi suất cho vay sẽ giảm dần từ nay đến cuối năm và sang quý I/2024, còn sau đó rất khó để đưa ra dự báo trong thời gian dài, tùy thuộc vào biến động kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới”, Phó tổng giám đốc HDBank nhận định.

Mặc dù phán đoán xu hướng nới lỏng tiền tệ sẽ kéo dài hết năm 2024, song nhiều chuyên gia cũng cảnh báo rủi ro lạm phát, tỷ giá.

Ông Dominic Scriven, Chủ tịch Dragon Capital Việt Nam cho rằng, thế giới sẽ phải sống chung với lạm phát cao nhiều năm nữa. Có khá nhiều lý do khiến nền kinh tế toàn cầu chịu áp lực mới như chuỗi cung ứng bị nghẽn làm hiệu quả sản xuất bị đình trệ, khó khăn, mất hiệu quả. Cùng với đó là các vấn đề liên quan chính trị ảnh hưởng tới các mặt hàng liên quan đến sống còn như dầu thô.

“Độ nhiệt của lạm phát đã sau lưng, nhưng chúng ta không chủ quan”, ông Dominic cảnh báo.    

Chi phí vốn của ngân hàng sẽ hạ từ quý IV/2023

Giá vốn bình quân của ngân hàng sẽ giảm trong quý IV/2023 nhờ tiền gửi chi phí thấp sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, NIM có thể sẽ không cải thiện ngay lập tức trong bối cảnh nhu cầu tín dụng còn yếu.

Báo cáo của chuyên viên phân tích Công ty Chứng khoán VNDirect cho thấy, tín dụng tính tới cuối quý III/2023 tăng 7,0% so với đầu năm. Trong quý III/2023, có xu hướng tăng trưởng khác nhau giữa các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân.

Trong quý III, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (VCB, BIDV) có mức tăng trưởng tín dụng khiêm tốn lần lượt là 1,0%/1,4% so với quý trước, thấp hơn đáng kể so với mức tăng trưởng tín dụng trung bình 2.4% so với quý trước của nhóm 25 ngân hàng niêm yết lớn nhất. Tăng trưởng tín dụng yếu là kết quả của nhu cầu tín dụng yếu do nền kinh tế vẫn chưa thực sự hồi phục và khẩu vị rủi ro cho vay của các ngân hàng này thấp.

Trong khi đó, một số ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân lại chứng kiến mức tăng trưởng tín dụng mạnh với trọng tâm là cho vay khách hàng doanh nghiệp (VPBank tín dụng tăng 6,4% so với quý trước, VIB tín dụng tăng 4,6% so với quý trước, LPB tín dụng tăng 4,0% so với quý trước.

Trong quý IV/2023, giới phân tích cho rằng, các ngân hàng có tỷ trọng cho vay khách hàng doanh nghiệp lớn và hạn mức tăng trưởng tín dụng lớn (VPBank, MB, HDBank) sẽ duy trì vị thế dẫn đầu về tăng trưởng tín dụng trong ngành. Dự báo tín dụng cả năm sẽ tăng 10%, thấp hơn mức mục tiêu 14% mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra.

Trong quý III/2023, tổng biên lãi thuần (NIM) của 25 ngân hàng niêm yết đã giảm 47 điểm cơ bản xuống 3,32% so với cùng kỳ với 22/25 ngân hàng đều có NIM giảm do tốc độ tăng lãi suất cho vay thấp hơn tốc độ tăng của chi phí huy động.

Tuy nhiên, có một tín hiệu  tích cực khi chi phí huy động vốn (COF) của cả ngành giảm 33 điểm cơ bản so với quý trước. Điều này có được nhờ nguồn huy động chi phí thấp bắt đầu có hiệu quả và tỷ lệ CASA tăng cao hơn.

“Trong quý IV/2023, chúng tôi kỳ vọng COF sẽ giảm hơn nữa nhờ tiền gửi chi phí thấp sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng. Tuy nhiên, NIM có thể sẽ không cải thiện ngay lập tức trong bối cảnh nhu cầu tín dụng còn yếu như hiện tại”, chuyên viên phân tích dự báo.

Thời gian qua, NIM của các ngân hàng có tỷ trọng sở hữu trái phiếu doanh nghiệp cao như VPBank, Techcombank tiếp tục giảm nhiều nhất. Một số ngân hàng sở hữu tỷ trọng cho vay cá nhân cao và tỷ lệ huy động bằng USD thấp sẽ có cơ hội cải thiện NIM tốt hơn so với các ngân hàng khác.

Theo dự đoán của nhóm phân tích, NIM sẽ có khả năng phục hồi năm 2023 nhờ nhu cầu tín dụng quay trở lại cùng với sự tăng trưởng kinh tế.  

Nhiều ngân hàng khó hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận 2023

Đến thời điểm này, không ít nhà băng vẫn chưa đạt 50% chỉ tiêu lợi nhuận, nên không dễ hoàn thành kế hoạch cả năm đã được đại hội đồng cổ đông thường niên thông qua.

 Trong 28 ngân hàng đã báo cáo tài chính quý III/2023 được thống kê, có tới 8 tổ chức có lợi nhuận chưa vượt qua mốc 50% kế hoạch năm.

So với kế hoạch lãi trước thuế 1.275 tỷ đồng trong năm 2023, sau 9 tháng, VietABank mới thực hiện được 46%. Tương tự, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank) cũng mới thực hiện được gần 44% sau chặng đường 9 tháng. Trong quý III/2023, NCB ghi nhận lợi nhuận sau thuế lũy kế giảm 47 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do thu nhập lãi thuần trong quý III/2023 chỉ ghi nhận lãi 7 tỷ đồng.

TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính (Trường đại học kinh tế TP.HCM) đánh giá, 2023 là một năm đầy thách thức với ngành ngân hàng, khi tình hình khó khăn ở trong nước và quốc tế khiến hoạt động kinh doanh, tiêu dùng sụt giảm, tăng trưởng tín dụng khó khăn, chất lượng tài sản tiếp tục suy giảm.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến gần cuối tháng 10/2023, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế chỉ mới đạt mức tăng trưởng 7,1% (mục tiêu cả năm 2023 là 14%).

Theo TS. Nguyễn Hữu Huân, tình trạng “thừa tiền” khiến ngân hàng khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng vay vốn. Trong khi đó, số dư tiền gửi vẫn tiếp tục tăng, nhiều ngân hàng chưa thể cho vay lượng vốn đã huy động giá cao trước đó, tạo thêm áp lực trả lãi. Điều này khiến mảng kinh doanh cốt lõi của nhiều ngân hàng ghi nhận tăng trưởng âm trong quý III/2023, thậm chí trong cả 9 tháng đầu năm.

Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) dự báo, lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2023 chỉ tăng khoảng 5,2%. Bước sang năm 2024, khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi, thì tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng mới có thể khởi sắc, dự báo đạt 18,9%.

Nguồn thu từ lãi và ngoài lãi giảm, trong khi đó, ngân hàng ngày càng phải bỏ ra nhiều chi phí để dự phòng rủi ro tín dụng trong bối cảnh nợ xấu tăng lên. Những khoản chi phí này đã “ăn mòn” trực tiếp vào lợi nhuận của các nhà băng. 

Chẳng hạn, BVBank dành hơn 141 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng tính đến cuối quý III/2023 (tăng 15% so với cùng kỳ), nên lãi trước thuế sau 9 tháng đầu năm chỉ đạt hơn 61 tỷ đồng, giảm 85% so với cùng kỳ năm 2022.

ABBank chỉ thu được hơn 708 tỷ đồng lãi trước thuế sau 9 tháng, giảm 59% so với cùng kỳ năm trước, do giảm thu nhập lãi thuần và tăng trích lập dự phòng rủi ro. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, thu nhập lãi thuần của ABBank giảm 20% so với cùng kỳ, còn 2.215 tỷ đồng. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay tăng từ mức 2,88% lên 3,51%. Vì thế, Ngân hàng phải dành ra gần 1.051 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng, tăng 99% so với cùng kỳ năm trước.

Ông Phạm Duy Hiếu, quyền Tổng giám đốc ABBank chia sẻ, bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế tác động không nhỏ đến kết quả kinh doanh của ABBank. Tuy vậy, Ngân hàng đang kiên trì từng bước cải thiện các mảng hoạt động, tiếp tục thực hiện chuyển đổi số, hướng tới thúc đẩy kinh doanh.

Trên thực tế, không chỉ có nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5 (nợ xấu) tăng lên, nhiều ngân hàng còn xuất hiện tình trạng nhảy nợ nhóm 2. Chất lượng tài sản sa sút khiến chi phí dự phòng tăng vọt, ăn mòn lợi nhuận.

Trong cuộc điều tra xu hướng kinh doanh quý IV/2023 do Ngân hàng Nhà nước thực hiện, các tổ chức tín dụng (TCTD) đều giảm mức độ kỳ vọng về kết quả kinh doanh và lợi nhuận trong thời gian tới. Cụ thể, 66,7 - 72,1% TCTD cho rằng, tình hình kinh doanh sẽ cải thiện trong quý IV và cả năm 2023 (thấp hơn tỷ lệ của kỳ trước); 82,6% TCTD dự báo lợi nhuận trước thuế năm 2023 tăng trưởng dương so với năm 2022; 13,8% TCTD lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm; 3,7% TCTD ước tính lợi nhuận không thay đổi.

Ông Trần Ngọc Báu, CEO WiGroup cho rằng, các ngân hàng đang rơi vào chu kỳ tăng trưởng âm, phải “gồng mình” để duy trì lợi nhuận. Theo ông Báu, lợi nhuận ngành ngân hàng có thể giảm mạnh trong quý IV/2023 vì thu nhập không thể tăng trưởng, trong khi chi phí tăng cao, nhưng có thể kỳ vọng, ngành ngân hàng sẽ tăng trưởng trở lại vào khoảng quý II/2024.

Tập trung phát triển nhà giá rẻ để rã băng tín dụng

Tín dụng tăng chậm, vốn tắc trong ngân hàng là tâm điểm chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại nghị trường đầu tuần này.

Chuyên gia kinh tế cho rằng, cần nhiều giải pháp để “rã băng” tín dụng, trong đó nên tập trung vào phân khúc nhà ở giá rẻ để tạo sức lan tỏa.

Tính tới ngày 27/10/2023, tín dụng toàn hệ thống mới tăng 7,1%, tức là mới đạt nửa chỉ tiêu định hướng cho cả năm. Chất vấn Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đầu tuần này, nhiều đại biểu Quốc hội tỏ ra sốt ruột khi tín dụng tăng trưởng rất chậm và đề nghị Thống đốc cho biết nguyên nhân, giải pháp của Ngân hàng Nhà nước để tăng trưởng tín dụng đạt 14% như mục tiêu đề ra, trong khi chỉ còn 2 tháng nữa là hết năm 2023.

Không có gì mới, trong phần trả lời, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng vẫn đưa ra lý do chính khiến tín dụng tăng chậm là cầu tín dụng suy giảm, đơn hàng của doanh nghiệp giảm sút, khả năng khai thác cầu nội địa khó khăn do người dân gặp khó sau đại dịch Covid-19…

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, tín dụng đang “đóng băng” đúng nghĩa.

“Doanh nghiệp đa phần không còn đủ điều kiện vay vốn, và thực sự không biết vay để làm gì. Vay ngắn hạn thì không có hợp đồng, vay đầu tư trung - dài hạn cũng rất rủi ro. Do khả năng trả nợ sút giảm, lòng tin của ngân hàng với doanh nghiệp cũng yếu đi, ngân hàng có tiền cũng không dám cho vay khi doanh nghiệp không có đơn hàng, không chứng minh được khả năng trả nợ. Chừng nào Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) còn chưa vượt quá 50 điểm, thì tín dụng sẽ còn đóng băng”, TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định.

Thông thường, tín dụng sẽ tăng mạnh trong nửa cuối năm, song theo TS. Lê Xuân Nghĩa, trong vài tháng tới, tín dụng khó tăng đột biến và cả năm nay, khả năng chỉ tăng tối đa 9 - 10%.

Mặc dù đánh giá cao chính sách tiền tệ từ đầu năm đến nay, đặc biệt là nỗ lực ổn định tỷ giá, giảm lãi suất huy động và cho vay, song các chuyên gia cho rằng, chỉ riêng hỗ trợ về mặt “cung” chưa thể “bẩy” tín dụng tăng trưởng. Việc “rã đông” tín dụng phụ thuộc nhiều vào kích thích sức cầu.

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, bên cạnh việc hạ lãi suất, gỡ điều kiện vay vốn, cần có các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế; đồng thời, phải gỡ khó cho thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp…

TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh, khó khăn của nền kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề ngắn hạn, mà còn là câu chuyện trung hạn, dài hạn. Cho nên, “phá băng” tín dụng là vấn đề rất khó khăn, không thể chỉ ngày một, ngày hai. Trong bối cảnh hiện nay, chính sách tài khóa còn nhiều dư địa hơn chính sách tiền tệ.

“Để phục hồi cầu tín dụng trong nước, đầu tiên, phải đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Song, nếu chỉ dựa vào đầu tư công, thì giống như người chỉ đi bằng một chân. Tôi cho rằng, để tín dụng phục hồi, cần phải phục hồi thị trường bất động sản trên nền tảng nhà ở giá rẻ”, TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định.

Theo chuyên gia này, chúng ta phải thay đổi quan điểm đẩy mạnh nhà ở xã hội vì vướng quá nhiều điều kiện, thủ tục, thay vào đó, tập trung đẩy mạnh nhà ở giá rẻ. Muốn vậy, không nên khống chế giá, khống chế tỷ lệ lợi nhuận với nhà ở giá rẻ, không bắt doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về đối tượng mua nhà.

Nếu làm được như vậy, gói 120.000 tỷ đồng, thậm chí 200.000 tỷ đồng cũng sẽ giải ngân rất nhanh, có thể tạo sức lan tỏa cho nhiều ngành như xây dựng, vật liệu xây dựng, nội thất…, tạo sức bật cho tín dụng toàn thị trường. Nếu chỉ gói gọn trong nhà ở xã hội như hiện nay sẽ dẫn tới tình trạng bế tắc, vì người có khả năng mua nhà thì không mua được nhà, còn người nằm trong đối tượng mua nhà ở xã hội lại không có khả năng thanh toán.

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, gói 120.000 tỷ đồng đến nay mới giải ngân được hơn 100 tỷ đồng. Hiện có 18/63 tỉnh, thành phố đã gửi văn bản công bố Dự án tham gia chương trình, tổng cộng có 53 dự án với nhu cầu vay là 27.000 tỷ đồng.

Nguyên nhân khiến giải ngân gói tín dụng này còn hạn chế, theo Thống đốc, trước hết là do cả cầu lẫn cung còn hạn chế (nguồn cung về nhà ở xã hội còn ít; người dân có nhu cầu về nhà ở lớn, nhưng khi vay mua nhà thì họ cân nhắc rất kỹ).

Thứ hai, điều kiện được hưởng chính sách nhà ở xã hội còn bất cập, như quy định về thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân, chưa có nhà ở...

Thứ ba, gói 120.000 tỷ đồng thực hiện 10 năm, trong khi cho vay bất động sản thường kéo dài và giải ngân theo thời gian, nên đạt thấp. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã kiến nghị, mong UBND các tỉnh, thành phố sớm công bố các dự án thuộc chương trình này để các ngân hàng triển khai và phối hợp với các bộ, ngành đẩy nhanh thực hiện.

Nợ “nguy cơ xấu" của tín dụng BT, BOT rất lớn

Dư nợ không lớn song cho vay dự án BT, BOT giao thông đang có tỷ lệ nợ xấu cao hơn bình quân ngành (3,83%). Đáng chú ý nữa, nợ nhóm 2 chiếm đến 26,52% - đây là nhóm nợ sát với nợ nợ nhóm 3 (nợ xấu). 

Chiều 6/11, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn các đại biểu quốc hội.

Trả lời câu hỏi liên quan đến tín dụng cho các Dự án BOT của đại biểu Nguyễn Đại Thắng (Hưng Yên), Thống đốc cho biết, nhu cầu vốn cho các dự án về cơ sở hạ tầng giao thông cần khối lượng vốn rất lớn và với kỳ hạn dài, tính chất nguồn vốn của hệ thống tổ chức tín dụng là nguồn vốn huy động ngắn hạn nên việc cho vay với khối lượng lớn và dài hạn cũng bị ràng buộc. Bởi tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng vừa qua cho thấy, nếu huy động bằng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn có thể dẫn tới rủi ro và hệ lụy cho ngân hàng. Sự đổ vỡ của nhiều ngân hàng tại Mỹ thời gian qua là ví dụ điển hình.

Tính đến ngày 30/9, có 22 tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông, tổng dư nợ 92.319 tỷ đồng. Tuy nhiên, điều đáng chú ý nợ xấu chiếm 3,83%, đáng chú ý nữa, nợ nhóm 2 chiếm đến 26,52% - đây là nhóm nợ sát với nợ nhóm 3 - nợ xấu.

Nguyên nhân chủ yếu là các phương án tài chính của các dự án thường không đúng như với phương án tài chính xây dựng ban đầu. Do vậy, chính sách huy động vốn cũng cần phải huy động nhiều nguồn lực tài chính khác, kể cả là trong nước và nước ngoài.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng trao đổi thêm về tranh luận của đại biểu Hà Sĩ Đồng (Quảng Trị) về câu chuyện xóa bỏ room tín dụng.

Đại biểu Đồng đặt câu hỏi room tín dụng có nguy cơ tạo cơ chế xin - cho và nảy sinh các tiêu cực khác hay không. Thống đốc khẳng định, để tránh trường hợp tùy ý trong việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước hàng năm có định hướng, nhưng trên cơ sở này cũng có nguyên tắc chung, đó là xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, có một số tiêu chí khác như mặt bằng lãi suất giảm, tham gia vào quá trình tái cấu trúc... sẽ được cộng điểm.

Theo Thống đốc, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là vốn phụ thuộc vào vốn tín dụng của ngân hàng rất lớn; tỷ lệ dư nợ trên GDP trên 120% GDP và đang ở mức cảnh báo theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế. Nhu cầu vốn trung dài hạn từ ngân hàng vẫn rất lớn, nếu bỏ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng có thể tín dụng sẽ tăng rất mạnh, có thể rủi ro đối với hệ thống ngân hàng.

Về thời điểm có thể bỏ room tín dụng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, khi các phân khúc khác của thị trường vốn như trái phiếu doanh nghiệp phát triển, đảm bảo được nhu cầu vốn trung và dài hạn, còn các tổ chức tín dụng chủ yếu cung ứng nguồn vốn ngắn hạn và vốn lưu động thì việc bỏ room có thể khả thi.

Một vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm nữa là tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém. Về vấn đề này, Thống đốc cho biết, việc xây dựng đề án tái cơ cấu ngân hàng yếu kém là việc rất khó, chưa có tiền lệ, năng lực cán bộ còn hạn chế, cơ chế chính sách hỗ trợ cần sự giúp đỡ từ các cơ quan liên quan. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang trong quá trình thực hiện theo tiến độ và trình các cơ quan liên quan.

Nghị định 24 không còn phù hợp với thị trường vàng hiện nay

Ông Huỳnh Trung Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA) cho rằng, dù đã góp phần ổn định tỷ giá và kiểm soát thị trường vàng, song sau 10 năm, kể từ khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP được ban hành đến nay thị trường đã có nhiều thay đổi nên cần sửa đổi.

Theo ông Khánh, các quy định của Nghị định 24 phù hợp với thị trường trong những năm về trước, còn hiện nay, cần sửa đổi, vì không còn phù hợp với diễn biến của thị trường ở thời điểm hiện tại. Vì thế, chúng tôi tiếp tục kiến nghị  Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc sửa đổi các quy định quản lý thị trường vàng cho phù hợp hơn trong bối cảnh thị trường đã có nhiều thay đổi.

Việc sửa đổi như thế nào sẽ được NHNN công bố cụ thể sau khi có dự thảo sửa đổi. Tuy nhiên, theo ông Khánh, hướng sửa đổi thì không còn độc quyền thương hiệu vàng miếng SJC. Vì chính việc độc quyền đã đẩy vàng thương hiệu SJC trong nước luôn cao hơn thế giới đến hàng chục triệu đồng/lượng. Bởi nguồn cung trong nước hạn chế khi vàng miếng SJC không được sản xuất thêm. 

Ông Khánh cũng cho rằng cần có chính sách cho nhập vàng nguyên liệu để doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nữ trang vàng trong nước khỏi thu gom hàng trôi nổi như kể từ khi Nghị định 24 ra đời đến nay. Nếu không cho mở cửa thì nguồn vàng không chính ngạch vẫn vào thị trường khi vàng trong nước khan hiếm, giá cao hơn quốc tế. Trong khi đó, ngành sản xuất nữ trang vàng đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước, nhưng không có nguyên liệu để làm. Vì thế, cần có chính sách cho doanh nghiệp sản xuất nữ trang được nhập vàng nguyên liệu về sản xuất. Thực tế trong gần 10 năm qua, các doanh nghiệp này đã thu gom vàng trôi nổi trên thị trường, trong đó có nguồn vàng nhập lậu vào Việt Nam, do các nước trong khu vực thị trường vàng trong nước và quốc tế đều liên thông nhau.

Liên quan đến vấn đề nhập khẩu vàng nguyên liệu, VGTA cho biết, việc sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ cần được khuyến khích đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Khi giá vàng nội cao hơn giá quốc tế, thì doanh nghiệp cần được nhập khẩu vàng nguyên liệu để có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. VGTA từng kiến nghị sớm sửa Nghị định 24 theo hướng xem vàng nữ trang là mặt hàng kinh doanh bình thường, thay vì mặt hàng kinh doanh có điều kiện như hiện nay.

Xử lý ngân hàng yếu kém: Bước ngoặt mong manh giữa phát triển và thụt lùi

Bài viết của GS-TS. Trần Ngọc Thơ (Đại học kinh tế TP.HCM)   

Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng có nhiều nội dung mới để xử lý các ngân hàng yếu kém. 

Thứ nhất, ngân hàng phải tự xây dựng phương án xử lý khắc phục trong trường hợp nếu được can thiệp sớm. Một dạng ngân hàng phải tự tìm cách cứu mình trước khi Nhà nước can thiệp hoặc hỗ trợ.

Thứ hai, có khoảng 15 chính sách hỗ trợ cho các ngân hàng được can thiệp sớm. Đặc biệt, đối với các ngân hàng tham gia hỗ trợ ngân hàng được can thiệp sớm cũng nhận được nhiều ưu đãi, chỉ nêu vài chính sách điển hình: các khoản cho vay, tiền gửi từ ngân hàng hỗ trợ sẽ được xếp vào nhóm có hệ số rủi ro 0% khi tính tỷ lệ an toàn vốn, được phân loại vào nhóm nợ đủ tiêu chuẩn, được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc, được phát hành trái phiếu dài hạn cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, được vay tái cấp vốn với lãi suất bằng lãi suất đã cho vay hoặc gửi tiền tại ngân hàng được can thiệp sớm; và… còn “nhiều biện pháp khác” theo thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Thứ ba, [có chương riêng] ngân hàng bị rút tiền hàng loạt nhận được hỗ trợ như: được bán giấy tờ có giá cho NHNN trên thị trường mở với lãi suất 0% (bản chất là vay ngắn hạn NHNN để hỗ trợ thanh khoản với lãi suất 0%); được vay đặc biệt lãi suất 0%, thậm chí, không cần tài sản đảm bảo. Cho vay đặc biệt còn áp dụng đối với ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hoặc bị chuyển giao bắt buộc và những ngân hàng có tham gia hỗ trợ ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hoặc chuyển giao bắt buộc.

Tuy nhiên, những “điểm mới” này có thực sự mới theo thông lệ phổ quát và liệu có làm cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh?

Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới (WB) về các phương pháp tái cơ cấu ngân hàng (so sánh trước khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 với năm 2003), phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất là đóng cửa và thanh lý ngân hàng (988 trường hợp năm 2008; 940 năm 2003), tiếp theo là chuyển nhượng tài sản, sáp nhập và mua lại (172 trường hợp năm 2008; 602 năm 2003). Ít được sử dụng nhất là can thiệp nắm quyền kiểm soát và hỗ trợ thanh khoản (66 trường hợp năm 2008; 313 năm 2003). Đóng cửa và thanh lý chủ yếu được sử dụng cho các ngân hàng nhỏ, trong khi hỗ trợ thanh khoản chủ yếu áp dụng cho các ngân hàng lớn. Điều này cũng dễ hiểu: thanh lý một ngân hàng lớn có thể không phù hợp, vì nó gây hậu quả nghiêm trọng đến toàn hệ thống.

Đề án Tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu 2021 - 2025 đặt mục tiêu đến năm 2025 giảm số lượng các ngân hàng yếu kém; phấn đấu để có nhóm ngân hàng tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, quy mô lớn, vốn điều lệ tối thiểu 15.000 tỷ đồng; nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ và trung bình có vốn điều lệ tối thiểu 5.000 tỷ đồng.

Do có sự phân hoá lớn trong quy mô tổng tài sản, theo tôi, Dự thảo nên cân nhắc phân loại thành hai loại là các ngân hàng quan trọng hệ thống (SIFI) có vốn điều lệ tối thiểu 15.000 tỷ đồng và nhóm ngân hàng nhỏ có vốn điều lệ tối thiểu 5.000 tỷ đồng để có các biện pháp can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, chuyển giao bắt buộc, thanh lý nhanh chóng và phù hợp.

Hầu hết các quốc gia có SIFI đã đưa ra luật gọi là “Xử lý ngân hàng mất khả năng thanh toán” phù hợp với 12 nguyên tắc của Hội đồng Ổn định tài chính FSB. Cho đến gần đây, có khoảng 56 nền kinh tế mới nổi triển khai các nguyên tắc của FSB.

Việt Nam hiện có khoảng 10 ngân hàng có quy mô tài sản lớn nhất, nắm giữ 9,97 triệu tỷ đồng, tương ứng với 77,5% tổng tài sản các ngân hàng. Đây đích thực là các SIFI của Việt Nam và do đó Dự thảo cần cân nhắc trải nghiệm từ việc xử lý 3 ngân hàng Mỹ phá sản mới đây (cũng là điển hình khi Thống đốc NHNN nhiều lần dẫn chứng như một tham chiếu khi xây dựng Dự thảo trong trường hợp ngân hàng bị rút tiền hàng loạt) để điều chỉnh, bổ sung một vài nội dung phù hợp.

Ở nhiều quốc gia, như Mỹ, một ngân hàng nhỏ thất bại thường được Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi liên bang (FDIC) đưa vào tiếp quản, sau đó sẽ đàm phán với một ngân hàng lành mạnh để tiếp quản tài sản của ngân hàng thất bại. Một điều rất bình thường khi một ngân hàng thất bại bị đóng cửa vào cuối tuần và tiếp tục hoạt động kinh doanh như một ngân hàng mới vào tuần tới. Mặc dù quá trình này rất hiệu quả và đảm bảo niềm tin và ổn định trong toàn hệ thống, nhưng nó không hoạt động tốt đối với các SIFI. Rất khó tìm thấy các ngân hàng lành mạnh có thể tiếp quản các SIFI, thậm chí trong điều kiện thị trường đang có nhiều nguồn lực. Để tháo gỡ bế tắc, Đạo luật Dodd-Frank Mỹ yêu cầu các SIFI (có tổng tài sản trên 250 tỷ USD) phải đệ trình FDIC kế hoạch tự xử lý (Living Wills), bao gồm cả phần công khai thông tin ra thị trường và bí mật.

Khung kế hoạch tự xử lý của Mỹ ứng dụng cho Liên minh châu Âu (EU) có tên gọi là Chỉ thị Phục hồi và Xử lý ngân hàng (BRRD), và với tên gọi khác nhau ở nhiều quốc gia. Nội dung cơ bản bao gồm việc lập bản đồ ngành nghề kinh doanh; cung cấp các phân tích tích hợp về cấu trúc tập đoàn tài chính/ngân hàng; phân tích toàn bộ rủi ro tín dụng và các rủi ro khác; nguồn vốn, tài sản và dòng tiền; các khu vực pháp lý trong và ngoài nước mà ngân hàng hoạt động; hệ thống thông tin hỗ trợ và các dịch vụ thiết yếu khác; và các thành phần quan trọng khác trong hoạt động kinh doanh. Tất cả là một phần của kế hoạch xử lý nhanh chóng và có trật tự.

Một khi ngân hàng có nguy cơ thất bại, FDIC sẽ tìm kiếm hồ sơ dự thầu từ những người mua [đủ điều kiện] từng hoạt động hoặc toàn bộ ngân hàng thất bại. FDIC sẽ phân tích các hồ sơ dự thầu và chọn giá thầu mang lại sự phục hồi cao nhất cho việc tiếp quản. Người trúng thầu sẽ kiểm soát ngành, nghề hoặc đơn vị kinh doanh đồng thời với việc đóng cửa ngân hàng thất bại. Trong trường hợp không tìm được người mua thích hợp, tài sản hoặc từng bộ phận của ngân hàng thất bại sẽ chuyển sang một hoặc nhiều ngân hàng bắc cầu thuộc quyền quản lý của FDIC trong thời hạn không quá 2 năm.

Một khi thiết kế phiên bản “Living Wills” phù hợp với đặc thù Việt Nam được bổ sung trong Dự thảo, ngoài việc xử lý các ngân hàng lớn hiệu quả khi chúng có nguy cơ thất bại, NHNN sẽ có thêm công cụ hữu hiệu để chấm dứt sở hữu chéo.

Có một số nhà băng thuộc dạng SIFI hiện nay ở nước ta, dù ai cũng biết ông chủ thật sự đứng sau, nhưng không có căn cứ pháp lý quy trách nhiệm. Các SIFI sở hữu chéo sẽ khó thể nào thuyết phục được NHNN về kế hoạch tự xử lý trong trường hợp thất bại hoặc gặp phải khủng hoảng tín dụng, bởi không ai có thể trả lời một cách đáng tin cậy cho NHNN, rằng liệu pháp nhân nào sẽ bơm vốn?

Như ở Mỹ, nếu FDIC và Fed cùng xác định “Living Wills”  là thiếu sót, hoặc không đáng tin cậy, ngân hàng có 90 ngày để nộp lại. Sau đó, nếu bản nộp lại vẫn được coi là thiếu sót, FDIC và Fed sẽ áp đặt nhiều biện pháp trừng phạt nghiêm khắc; nhiều ngân hàng top đầu thường xuyên bị FDIC và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa thông tin ra thị trường và sau đó đã nhanh chóng nộp lại “Living Wills” đáng tin cậy.

Như đã nêu, Dự thảo có quá nhiều chính sách hỗ trợ ngân hàng yếu kém và cả các ngân hàng tham gia hỗ trợ các ngân hàng yếu kém. Thoạt nhìn, sẽ không thấy can thiệp trực tiếp [trong các câu chữ] từ nguồn lực ngân sách nhà nước, đặc biệt là việc NHNN có thẩm quyền cho vay đặc biệt lãi suất 0%, không cần tài sản đảm bảo.

Hiện có quan điểm cho rằng, NHNN cho vay đặc biệt là không trực tiếp sử dụng nguồn ngân sách nhà nước mà chỉ thực hiện phát hành tiền ra lưu thông để thực hiện chức năng phát hành tiền, tương tự như thực hiện các nghiệp vụ bình thường của NHNN.

May mắn là các nghiên cứu đã chỉ rõ thế nào là cứu trợ công và đã được luật hoá tại nhiều quốc gia. Một gói cứu trợ công được định nghĩa là bất kỳ can thiệp nào của ngân hàng trung ương làm chuyển dịch phúc lợi dự kiến từ người nộp thuế sang chủ nhà băng, người gửi tiền và các chủ nợ dài hạn của ngân hàng.

Luật nhiều nước tìm cách kiểm soát điều này bằng cách: can thiệp khẩn cấp của ngân hàng trung ương thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Tài chính, hoặc ngân hàng trung ương phải tham vấn Bộ Tài chính. Theo tôi, điều này không có nghĩa, NHNN không thể triển khai không hạn chế các biện pháp hỗ trợ khẩn cấp, nhưng sau đó phải báo cáo Quốc hội vì hai lý do.

Thứ nhất, bảo lãnh ngầm cho một ngân hàng thất bại sẽ phát tín hiệu cho toàn bộ hệ thống thực hiện các khoản đầu tư rủi ro, vì lợi nhuận thu được từ việc chấp nhận rủi ro quá mức mang lại lợi ích cho chủ nhà băng nhưng tổn thất lại được xã hội hóa. NHNN hiện đang lập luận điều này là phù hợp trong trường hợp khẩn cấp, tài sản của ngân hàng rất hạn chế, không đáp ứng yêu cầu tài sản bảo đảm khoản vay đặc biệt theo quy định; nếu ngân hàng bị rút tiền hàng loạt nhưng không đủ tài sản bảo đảm và nếu không được vay đặc biệt lãi suất 0% và không tài sản thế chấp để chi trả cho người gửi tiền thì tình trạng hoảng loạn rút tiền sẽ lan ra cả hệ thống.

Nhưng chính bản thân việc ngân hàng không có đủ tài sản bảo đảm vay phần lớn lại là hậu quả từ việc cho vay bất cẩn đến từ các bất cập trong giám sát và quy định trước đó. Nay lại thêm vào các bảo hộ ngầm để ngân hàng được vay đặc biệt không cần tài sản bảo đảm, thì lại là một vòng luẩn quẩn? Trong trường hợp này, theo tôi, giải pháp là NHNN có thể xem tổng thể ngân hàng như là tài sản thế chấp - như luật một số nước.

Thứ hai, vì cổ đông nhỏ, người gửi tiền và chủ nợ dài hạn biết chắc sẽ nhận được bảo vệ khi ngân hàng thất bại, họ không còn động lực để giám sát, theo dõi tình trạng tài chính của ngân hàng. Tất cả đều phó mặc cho hệ thống an toàn tài chính được nhà nước bảo hộ ngầm thông qua bảo hiểm tiền gửi và cho vay đặc biệt không cần tài sản bảo đảm với lãi suất 0%. Trong khi đó, kỷ luật thị trường lại là một trong ba trụ cột quan trọng của chuẩn mực Basel mà luật ngân hàng các nước đều đặc biệt xem trọng.

Để giảm nhẹ rủi ro đạo đức do bảo hộ của nhà nước, theo tôi, Dự thảo có thể áp dụng cách tiếp cận “mơ hồ mang tính xây dựng” như luật ngân hàng nhiều nước, bằng việc không quá đưa ra các quy định cụ thể, nhưng tuyên bố ngân hàng trung ương luôn sẵn sàng ứng biến trong mọi tình huống, để niềm tin thị trường tự củng cố nhằm giảm nhẹ hoặc chấm dứt tình trạng rút tiền hàng loạt. Các ngân hàng, vì vậy, cũng luôn trong tâm thế sẵn sàng nguồn lực, bảo đảm luôn đáp ứng tỷ lệ thanh khoản để ứng phó tình huống bất ngờ, thay vì ỷ lại có nhà nước đứng sau.

Nhìn tổng thể, những điểm bổ sung trong Dự thảo để xử lý các ngân hàng yếu kém có thể giải quyết trước mắt niềm tin cho hệ thống, nhưng cũng có khả năng dẫn tới động lực khuyến khích ngược, có nguy cơ ảnh hưởng bất lợi đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong dài hạn.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư